LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA, NĂM C
St
14,18-20; 1 Cr 11,23-26; Lc 9,11b-17
Thánh
Gioan định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8). Tình yêu đó đã trở thành
thương xót khi Thiên Chúa tạo dựng và cứu độ loài người. Xuyên qua lịch sử,
Thiên Chúa mạc khải Người là vị Thiên Chúa thương xót qua danh thánh Giavê, qua
danh thánh Giêsu và qua Giáo Hội.
1-
“Giavê,” vị Thiên Chúa thương xót
Cựu Ước
đã nhiều lần ghi lại kinh nghiệm gặp gỡ với vị Thiên Chúa thương xót, đặc biệt
là kinh nghiệm của Môsê gặp gỡ vị Thiên Chúa tại núi Sinai. Sách Xuất Hành kể lại
cuộc đàm đạo giữa Môsê với Thiên Chúa mà ông chưa biết tên. Ông hỏi tên Người
là gì và Thiên Chúa mạc khải cho ông biết tên Người là Giavê, Đấng Tự Hiện Hữu,
là “Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Ápbraham, Thiên
Chúa của Ixaác, Thiên Chúa của Giacóp” (x. Xh 3,1-15).
Trong tiếng
Do Thái, “Giavê” diễn tả vị Thiên Chúa sống động và hiện diện bên cạnh con người
để giải phóng họ; đó là Thiên Chúa gần gũi và sẵn sàng đáp cứu con người gặp cảnh
khó khăn. Khi Thiên Chúa mạc khải tên chính là lúc mạc khải bản tính Người. Đó
là vị “Thiên Chúa nhân từ và đầy thương xót, chậm bất bình, giàu nhân nghĩa và
thành tín” (Xh 34,6).
Lịch sử
cứu độ là lịch sử của lòng thương xót mà Thiên Chúa thể hiện đối với con người,
hơn là lịch sử của một vị Thiên Chúa nghiêm khắc, thích phạt và hủy diệt loài
người.
Vì Thiên
Chúa thương xót nên Người luôn sẵn sàng tha thứ mọi sự xúc phạm và tội lỗi của
loài người. Thánh Vịnh gia nói: “Người tha thứ cho tất cả tội lỗi của bạn, Người
chữa lành mọi bệnh tật của bạn, Người cứu chuộc bạn khỏi hố sâu, Người trao
vương niệm cho bạn với tình yêu kiên định và lòng thương xót” (Tv 103,3-4).
Như thế,
trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã mạc khải chính mình là Đấng giàu thương xót. Đó
chính là dung mạo đích thực của Thiên Chúa được mạc khải cho chúng ta.
2-
“Giêsu,” hiện thân lòng thương xót
Với mầu
nhiệm nhập thể làm người, lòng thương xót của Thiên Chúa có một dung mạo cụ thể
và rõ ràng qua dung mạo của Đức Kitô.
Bởi thế,
bắt đầu Tông Chiếu Misericordiae Vultus, Đức Giáo Hoàng Phanxicô có những lời rất
ý nghĩa: “Chúa Giêsu Kitô chính là dung mạo lòng thương xót của Chúa Cha. Mầu
nhiệm Kitô giáo được tóm tắt đầy đủ trong mệnh đề này. Lòng thương xót đã trở
nên sống động và hữu hình nơi Ðức Giêsu thành Nadarét, và đạt đến đỉnh cao nơi
Người. Chúa Cha, Đấng “giàu lòng thương xót” (Ep 2,4)… đã sai Người Con duy nhất
đến thế gian… để mạc khải cho chúng ta biết trọn vẹn tình yêu của Người. Ai thấy
Đức Giêsu là thấy Cha (Ga 14,9). Đức Giêsu Nadarét đã mạc khải lòng thương xót
của Thiên Chúa bằng lời nói, hành động và bằng cả bản thân Người (Misericordiae
Vultus, số 1).
Trong suốt
cuộc đời tại thế, Đức Giêsu xuất hiện như là sứ giả của lòng thương xót Chúa
Cha: khi thấy đám đông dân chúng bơ vơ không người chăn dắt, Người chạnh lòng
thương họ cách sâu xa (x. Mt 9,36); khi thấy những người đau yếu bệnh hoạn tật
nguyền, bị quỷ ám, Người chữa lành cho họ (x. Mt 14,14 tt; Mc 5,19); khi thấy
những người tội lỗi cần hoán cải, Người chủ động đến gặp gỡ và giúp họ trở về như
trường hợp của Mátthêu của Giakêu hay của Mađalêna v.v...
Tuy
nhiên, nghĩa cử thương xót ấy đạt tới viên mãn nơi biến cố Chết và Phục Sinh của
Đức Kitô. Tại đây, Con Thiên Chúa đã tự hạ mình cho đến cùng, trở thành người
Tôi Tớ đau khổ, chịu chết trên thập giá, đổ máu đào để cứu độ loài người. Nơi
thập giá, Người mạc khải lòng thương xót Thiên Chúa một cách tuyệt vời nhất:
Thiên Chúa cùng chịu đau khổ với chúng ta. Thiên Chúa chịu chết thay cho chúng
ta để chúng ta được sống dồi dào. Và sự phục sinh của Đức Kitô là chiến thắng của
lòng thương xót Chúa trên tội lỗi và oán thù.
Như thế,
Đức Giêsu chính là hiện thân của lòng thương xót Thiên Chúa. Người đến không để
hủy diệt nhưng để cứu chữa, và tìm lại những gì đã mất.
3- Điều
kiện để đón nhận lòng thương xót
Điều kiện
1: nhận biết mình có tội và cần đến lòng thương xót: để đón nhận ơn tha thứ và
thương xót, chúng ta phải thực sự có lòng sám hối. Nhìn nhận mình có tội và xin
Chúa tha thứ. Đức Giáo Hoàng Phanxicô khuyên: “Phải mở lòng với lòng thương
xót, mở tâm hồn và bản thân ra, để Chúa Giêsu đến với mình bằng cách đi xưng tội
trong Đức tin.”
Tất cả
chúng ta đều là tội nhân cần đến lòng thương xót Chúa, chúng hãy thưa với Chúa:
“Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội” (Lc 18,13). Chỉ cần chúng ta hoán cải,
Thiên Chúa sẽ sẵn sàng tha thứ cho chúng ta.
Điều kiện
2: Hoán cải và thay đổi đời sống: Thiên Chúa hay thương xót nhưng không vì thế
mà chúng ta muốn làm gì thì làm, sống thế nào thì sống. Để đón nhận lòng thương
xót của Thiên Chúa, chúng ta phải sám hối và hoán cải đời sống mình.
Nếu thiếu
hoán cải đời sống, chúng ta biến ân sủng quý giá của Thiên Chúa thành một thứ
ân sủng “rẻ tiền.” Như Đức Hồng Y Kasper cảnh báo: “Sự nguy hiểm của những việc
như thế là biến ơn thánh quí báu của Thiên Chúa, vốn phải mua bằng giá máu của
Người trên thập giá, thành thứ ơn phúc rẻ tiền, biến ơn thánh thành món hàng
bán rẻ ở tầng hầm.”
4- Nơi để
đón nhận lòng thương xót
Nơi 1:
Bí tích Hòa Giải là tòa của lòng thương xót. Chúng ta hãy đến đó và xưng tội. Đức
Giáo Hoàng Phanxicô cũng đi xưng tội một cách công khai dù ngài là giáo hoàng.
Ngài làm gương cho chúng ta.
Nơi 2:
Thánh Thể, nguồn mạch của lòng thương xót Chúa. Tại đây, Đức Giêsu trở thành
lương thực cho chúng ta. Chúa ban sự sống thần linh cho chúng ta. Hãy đến tham
dự Thánh Lễ hằng ngày và hằng tuần. Nơi đó, chúng ta sẽ gặp lòng thương xót
Chúa.
5- Kitô
hữu, tên của lòng thương xót
Chúa
Giêsu mời gọi: “Anh em hãy có lòng thương xót như Chúa Cha” (Lc 6,36). Nếu tên
của Chúa là thương xót thì tên của chúng ta cũng phải phản ánh lòng thương xót
Chúa. Chúng ta được mời gọi hãy sống và thực thi lòng thương xót Chúa trong môi
trường sống của mình. Noi gương Đức Giêsu, chúng ta thực thi lòng thương xót đối
với tha nhân bằng thái độ tôn trọng, cảm thương, bao dung và chia sẻ đối với những
người xung quanh. Amen!
No comments:
Post a Comment