Những Suy tư về Sacrosanctum Concilium
1- Công đồng Vatican II: một phụ lưu, chứ không là dòng sông
Sau khi đã suy niệm về Lumen Gentium trong Mùa Vọng, tôi muốn tiếp tục suy tư về những tài liệu có giá trị khác của Vatican II qua những suy niệm trong Mùa Chay này. Tuy nhiên, thiết tưởng sẽ có ích nếu chúng ta thực hiện một sự giới thiệu dẫn nhập.
Vatican II là một phụ lưu chứ không là dòng sông. Trong tác phẩm nổi tiếng An Essay on the Development of Christian Doctrine (Tiểu luận về sự phát triển của Học Thuyết Kitô giáo) của mình, chân phước Hồng Y Newman đã quả quyết một cách mạnh mẽ rằng dừng lại sự phát triển của truyền thống tại một điểm nào đó, ngay cả đó là một Công đồng đại kết, sẽ biến nó thành một truyền thống chết và nó không phải là một “truyền thống sống động.” Truyền thống được ví như âm nhạc. Đâu là giai điệu được tấu lên nếu nó chỉ dừng lại trên một nốt nhạc và lặp lại nốt nhạc đó mãi? Điều này cũng xảy ra khi một đĩa CD bị trầy xước và chúng ta biết kết quả của nó sẽ như thế nào rồi.
Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII muốn Công đồng phải là “một lễ Hiện xuống mới” cho Giáo hội. Ước nguyện này được chấp nhận ít nhất về một điểm. Sau Công đồng có một sự phục hồi về Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần không còn là một “Ngôi Vị không được biết đến của Ba Ngôi.” Giáo hội ý thức rõ ràng hơn về sự hiện diện và hành động của Người. Trong bài giảng của mình tại lễ Dầu vào thứ Năm Tuần Thánh năm 2012, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI quả quyết rằng:
“Ai quan sát lịch sử của thời đại sau Công đồng có thể nhận ra tiến trình của sự canh tân đích thực thường mang những hình thức gây ngạc nhiên trong những phong trào đầy sức sống và hầu như làm xác thực sức sống vô biên của Hội Thánh, sự hiện diện và hiệu quả của Chúa Thánh Thần.”[1]
Điều này không có nghĩa là chúng ta có thể làm mà không có những bản văn Công đồng hay đi ra ngoài chúng. Nghĩa là cần đọc lại Công đồng dưới ánh sáng của những thành quả Công đồng. Việc các Công đồng đại kết có thể mang đến những hiệu quả mà những ai tham dự lúc đó không định trước là một sự kiện được Đức Hồng Y Newman đưa ra ánh sáng sau Công đồng Vatican I,[2] nhưng nó cũng được minh chứng nhiều lần trong lịch sử. Với định tín về Đức Maria là Theotokos, “Mẹ Thiên Chúa”, Công đồng đại kết ở Êphêsô vào năm 431 muốn khẳng định sự hiệp nhất ngôi vị của Chúa Kitô, chứ không có ý định làm gia tăng lòng sùng kính đối với Đức Trinh Nữ, nhưng trên thực tế là hoa quả rõ ràng nhất sau này.
Nếu có một lĩnh vực mà trong đó thần học và đời sống của Giáo hội Công Giáo đã được làm cho phong phú trong năm mươi năm sau Công đồng, một cách không nghi ngờ đó là những gì liên quan đến Chúa Thánh Thần. Tất cả các giáo phái Kitô giáo lớn trong thời gian gần đây khẳng định điều mà Karl Barth gọi là “Thần học về Tín khoản thứ ba.”[3] Thần học Tín khoản thứ ba là một nền thần học không kết thúc ở tín khoản về Chúa Thánh Thần nhưng lại bắt đầu với tín khoản này; nó chú ý đến trật tự mà theo đó đức tin Kitô hữu và kinh Tin Kính được hình thành, chứ không chỉ để ý tới sự biên soạn cuối cùng. Đó là sự kiện nhờ ánh sáng của Chúa Thánh Thần mà các tông đồ đã khám phá Chúa Giêsu đích thực là ai và mạc khải của Người về Chúa Cha. Kinh Tin Kính hiện tại của Giáo hội là hoàn hảo và không ai có thể ước mơ thay đổi nó nữa, nhưng nó phản ánh sự biên soạn cuối cùng, giai đoạn cuối được hoàn thành nhờ đức tin, tuy nhiên, đây không phải là con đường mà nhờ đó người ta đi tới, trong khi, theo cái nhìn của Tân Phúc âm hóa được đổi mới, nó rất sống động đối với chúng ta nếu nhận biết cả con đường mà qua đó người ta đến với đức tin, không phải chỉ là những định tín trong Kinh Tin Kính mà chúng ta đọc thuộc lòng.
Trong ánh sáng này xuất hiện cách rõ ràng những kết quả của một số khẳng định bởi Công đồng, nhưng cũng xuất hiện những khoảng trống và những lỗ hổng cần lấp đầy, cách đặc biệt liên quan đến vai trò của Chúa Thánh Thần. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã hành động cho sự cần thiết này trong dịp kỷ niệm 1600 năm Công đồng chung Constantinople, vào năm 1981, ngài viết trong Tông thư rằng:
“Tất cả công trình canh tân Giáo hội, mà Công đồng Vatican II đã trù liệu đề nghị và bắt đầu... không thể thực hiện nếu không ở trong Chúa Thánh Thần, nghĩa là với trợ giúp của soi sáng và quyền năng của Người.”[4]
1- Công đồng Vatican II: một phụ lưu, chứ không là dòng sông
Sau khi đã suy niệm về Lumen Gentium trong Mùa Vọng, tôi muốn tiếp tục suy tư về những tài liệu có giá trị khác của Vatican II qua những suy niệm trong Mùa Chay này. Tuy nhiên, thiết tưởng sẽ có ích nếu chúng ta thực hiện một sự giới thiệu dẫn nhập.
Vatican II là một phụ lưu chứ không là dòng sông. Trong tác phẩm nổi tiếng An Essay on the Development of Christian Doctrine (Tiểu luận về sự phát triển của Học Thuyết Kitô giáo) của mình, chân phước Hồng Y Newman đã quả quyết một cách mạnh mẽ rằng dừng lại sự phát triển của truyền thống tại một điểm nào đó, ngay cả đó là một Công đồng đại kết, sẽ biến nó thành một truyền thống chết và nó không phải là một “truyền thống sống động.” Truyền thống được ví như âm nhạc. Đâu là giai điệu được tấu lên nếu nó chỉ dừng lại trên một nốt nhạc và lặp lại nốt nhạc đó mãi? Điều này cũng xảy ra khi một đĩa CD bị trầy xước và chúng ta biết kết quả của nó sẽ như thế nào rồi.
Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII muốn Công đồng phải là “một lễ Hiện xuống mới” cho Giáo hội. Ước nguyện này được chấp nhận ít nhất về một điểm. Sau Công đồng có một sự phục hồi về Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần không còn là một “Ngôi Vị không được biết đến của Ba Ngôi.” Giáo hội ý thức rõ ràng hơn về sự hiện diện và hành động của Người. Trong bài giảng của mình tại lễ Dầu vào thứ Năm Tuần Thánh năm 2012, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI quả quyết rằng:
“Ai quan sát lịch sử của thời đại sau Công đồng có thể nhận ra tiến trình của sự canh tân đích thực thường mang những hình thức gây ngạc nhiên trong những phong trào đầy sức sống và hầu như làm xác thực sức sống vô biên của Hội Thánh, sự hiện diện và hiệu quả của Chúa Thánh Thần.”[1]
Điều này không có nghĩa là chúng ta có thể làm mà không có những bản văn Công đồng hay đi ra ngoài chúng. Nghĩa là cần đọc lại Công đồng dưới ánh sáng của những thành quả Công đồng. Việc các Công đồng đại kết có thể mang đến những hiệu quả mà những ai tham dự lúc đó không định trước là một sự kiện được Đức Hồng Y Newman đưa ra ánh sáng sau Công đồng Vatican I,[2] nhưng nó cũng được minh chứng nhiều lần trong lịch sử. Với định tín về Đức Maria là Theotokos, “Mẹ Thiên Chúa”, Công đồng đại kết ở Êphêsô vào năm 431 muốn khẳng định sự hiệp nhất ngôi vị của Chúa Kitô, chứ không có ý định làm gia tăng lòng sùng kính đối với Đức Trinh Nữ, nhưng trên thực tế là hoa quả rõ ràng nhất sau này.
Nếu có một lĩnh vực mà trong đó thần học và đời sống của Giáo hội Công Giáo đã được làm cho phong phú trong năm mươi năm sau Công đồng, một cách không nghi ngờ đó là những gì liên quan đến Chúa Thánh Thần. Tất cả các giáo phái Kitô giáo lớn trong thời gian gần đây khẳng định điều mà Karl Barth gọi là “Thần học về Tín khoản thứ ba.”[3] Thần học Tín khoản thứ ba là một nền thần học không kết thúc ở tín khoản về Chúa Thánh Thần nhưng lại bắt đầu với tín khoản này; nó chú ý đến trật tự mà theo đó đức tin Kitô hữu và kinh Tin Kính được hình thành, chứ không chỉ để ý tới sự biên soạn cuối cùng. Đó là sự kiện nhờ ánh sáng của Chúa Thánh Thần mà các tông đồ đã khám phá Chúa Giêsu đích thực là ai và mạc khải của Người về Chúa Cha. Kinh Tin Kính hiện tại của Giáo hội là hoàn hảo và không ai có thể ước mơ thay đổi nó nữa, nhưng nó phản ánh sự biên soạn cuối cùng, giai đoạn cuối được hoàn thành nhờ đức tin, tuy nhiên, đây không phải là con đường mà nhờ đó người ta đi tới, trong khi, theo cái nhìn của Tân Phúc âm hóa được đổi mới, nó rất sống động đối với chúng ta nếu nhận biết cả con đường mà qua đó người ta đến với đức tin, không phải chỉ là những định tín trong Kinh Tin Kính mà chúng ta đọc thuộc lòng.
Trong ánh sáng này xuất hiện cách rõ ràng những kết quả của một số khẳng định bởi Công đồng, nhưng cũng xuất hiện những khoảng trống và những lỗ hổng cần lấp đầy, cách đặc biệt liên quan đến vai trò của Chúa Thánh Thần. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã hành động cho sự cần thiết này trong dịp kỷ niệm 1600 năm Công đồng chung Constantinople, vào năm 1981, ngài viết trong Tông thư rằng:
“Tất cả công trình canh tân Giáo hội, mà Công đồng Vatican II đã trù liệu đề nghị và bắt đầu... không thể thực hiện nếu không ở trong Chúa Thánh Thần, nghĩa là với trợ giúp của soi sáng và quyền năng của Người.”[4]
2- Vai trò của Chúa Thánh Thần trong phụng vụ
Lời dẫn nhập tổng quát này minh chứng cho thấy rất hữu ích khi nghiên cứu tài liệu về phụng vụ. Bản văn này được soạn thảo từ một nhu cầu được chờ đợi từ rất lâu bởi nhiều phía cho một sự canh tân về những hình thức và nghi lễ phụng vụ Công Giáo. Từ viễn tượng này, nó đã mang lại nhiều hoa quả và rất có ích cho Giáo hội. Mặc dầu lúc này chưa được cảm nhận, nhưng chúng ta cần dừng lại ở điều mà sau này Romano Guardini gọi là “tinh thần của phụng vụ - the spirit of the liturgy”,[5] mà theo ý nghĩa tôi sẽ giải thích, tôi muốn gọi “phụng vụ của Thánh Thần - the liturgy of the Spirit” (“Spirit” với chữ S viết hoa!).
Trung thành với ý định mà tôi đề cập cho những suy niệm này để làm nổi bật một số khía cạnh tu đức và tâm linh của các bản văn Công đồng, tôi muốn đặc biệt chia sẻ một số suy niệm về điểm này. Sacrosanctum Concilium chỉ là một bản văn ngắn gọn sơ khởi được dành cho Công đồng, nó là kết quả của cuộc tranh luận mà từ đó làm phát sinh việc biên soạn cuối cùng của Hiến chế:[6]
“Thật vậy, trong công cuộc vĩ đại tôn vinh Thiên Chúa cách hoàn hảo và thánh hóa mọi người, Chúa Kitô hằng kết hiệp với Giáo hội là Hiền thê rất quý yêu và Giáo hội kêu cầu Người như Chúa mình và nhờ Người phụng thờ Chúa Cha Hằng Hữu.
Vì thế, phụng vụ đáng được xem là việc thực thi chức vụ tư tế của chính Chúa Giêsu Kitô, trong đó công cuộc thánh hóa con người được biểu tượng nhờ những dấu chỉ khả giác và được thể hiện hữu hiệu cách khác nhau theo từng dấu chỉ, và trong đó việc phụng tự công cộng vẹn toàn được thực thi nhờ Nhiệm thể Chúa Kitô, nghĩa là Đầu và cùng các chi thể Người.
Do đó, vì là công việc của Chúa Kitô tư tế và Thân thể của Người là Giáo hội, nên mọi cử hành phụng vụ đều là hành vi chí thánh và không một hành vi nào của Giáo hội có hiệu lực bằng, xét cả về danh hiệu lẫn đẳng cấp.”[7]
Ngày hôm nay chúng ta có thể đề cập đến một lỗ hổng trong sự trình bày này liên quan các đối tượng hay các “nhân vật” của phụng vụ. Chỉ có hai nhân vật chính được đề cập ở đây: Chúa Kitô và Giáo hội. Không hề có một sự đề cập nào về vai trò của Chúa Thánh Thần cả. Trong phần còn lại của Hiến chế cũng thế, Chúa Thánh Thần không bao giờ được nói một cách trực tiếp nhưng chỉ được đề cập nơi này nơi kia và luôn là “cách gián tiếp.”
Sách Khải Huyền chỉ cho chúng ta thấy trật tự và con số đầy đủ về những nhân vật trong phụng vụ khi tóm tắt việc thờ phượng Kitô giáo: “Chúa Thánh Thần và Tân Nương nói (với Đức Kitô Đấng Cứu Độ), hãy đến (Kh 22,17). Hơn nữa, Chúa Giêsu cũng đã giải thích cách hoàn hảo bản chất và canh tân việc thờ phượng được thiết lập bởi Giao Ước Mới trong cuộc đối thoại của Người với người phụ nữ Samarianô: “Đã đến lúc và chính là lúc này đây, những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và sự thật” (Ga 4,23).
Câu “thần khí và sự thật” trong ngôn ngữ của Gioan có thể chỉ có hai điều: hoặc là “Thần Khí của sự thật”, là Chúa Thánh Thần (Ga 14,17,16,13) hay là Thần Khí của Chúa Kitô - Đấng là chân lý (x. Ga 14,6). Một điều chắc chắn là “thần khí của chân lý” này không được giải thích theo ý nghĩa chủ quan, mà những nhà thơ và những nhà văn lãng mạn ưa thích khi cho rằng “thần khí và sự thật” nhắm đến tính nội tâm bên trong của một người, nghịch lại với mọi kiểu của sự tôn thờ tỏ ra bên ngoài và hữu hình. Đây không phải là một vấn đề đi từ bên ngoài vào bên trong, nhưng đi từ con người tới Thiên Chúa.
Nếu phụng vụ Kitô giáo là một “việc thực thi chức vụ tư tế của chính Chúa Giêsu Kitô” thì con đường tốt nhất để khám phá bản tính của nó là xem xét Chúa Giêsu đã thực thi chức năng tư tế này trong cuộc đời và trong cái chết của Người như thế nào. Vai trò của tư tế là dâng “những lời cầu nguyện và của lễ” cho Thiên Chúa (x. Dt 5,1,8,3). Chúng ta biết rằng giờ đây Chúa Thánh Thần là Người đặt tiếng kêu “Cha ơi!” vào trong trái tim của Ngôi Lời nhập thể - một tiếng kêu bao gồm mọi lời cầu của Người. Luca đề cập về điều này cách rõ ràng khi viết: “Trong chính lúc đó, Người được hoan lạc trong Chúa Thánh Thần và nói: Con cảm tạ Cha, là Chúa của trời và đất...” (Lc 10,21). Của lễ là Mình Người trong hiến lễ trên thập giá thực hiện, theo thư Do Thái “nhờ Thần Khí hằng hữu” (Dt 9,14), nghĩa là nhờ tác động của Chúa Thánh Thần.
Thánh Basiliô cống hiến một bản văn sáng chói về điểm này:
“Con đường cho sự hiểu biết thần linh đi lên từ Ngôi Thánh Thần qua Ngôi Con tới Ngôi Cha. Ngược lại, sự tốt lành tự nhiên, sự thánh thiện nội tại và phẩm giá vương giả đến từ Chúa Cha, qua Con Một Yêu Dấu tới Thánh Thần.”[8]
Hay nói cách khác, trên mức độ của hữu thể và sự phát xuất của thụ tạo từ Thiên Chúa, mọi sự đến từ Chúa Cha, đi qua Chúa Con và đến với chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần. Trong trật tự của nhận thức, hay sự trở về của thụ tạo với Thiên Chúa, mọi sự bắt đầu với Chúa Thánh Thần, đi qua Chúa Con, Đức Giêsu Kitô, và kết thúc với Chúa Cha.
Trong Giáo hội Latinh, chân phước Isaác thành Stella (thế kỷ XII) diễn tả điều này trong những từ mà nó rất giống với tư tưởng của thánh Basiliô:
“Cũng như là tặng phẩm thần linh đổ xuống trên chúng ta từ Chúa Cha, qua Chúa Con và Chúa Thánh Thần, hay trong Chúa Thánh Thần... Cũng thế, tặng phẩm nhân loại dâng lên nhờ Chúa Thánh Thần đến với Chúa Con, và nhờ Chúa Con đến Chúa Cha.”[9]
Như chúng ta thấy, đây không phải là vấn đề về việc trở thành người say mê một ngôi này hoặc một ngôi khác trong Ba Ngôi vị của Thiên Chúa nhưng là về việc phải bảo vệ sự năng động của Ba Ngôi trong phụng vụ. Sự im lặng đối với Chúa Thánh Thần chắc chắn sẽ giảm bớt bản chất Ba Ngôi của phụng vụ. Về vấn đề này, đối với tôi, lời cảnh báo của thánh Gioan Phaolô II trong Novo Millennio ineunte rất chí lý:
“Chúa Thánh Thần tác tạo trong chúng ta, sự hỗ tương này (trong cầu nguyện) mở toang chúng ta, nhờ Chúa Kitô và trong Chúa Kitô, cho sự chiêm ngắm dung mạo Chúa Cha. Khi học hỏi khuôn mẫu Ba Ngôi của lời cầu nguyện Kitô giáo và sống nó một cách tràn đầy, trên tất cả trong phụng vụ, đỉnh cao và suối nguồn của đời sống Giáo hội, nhưng cũng là trong kinh nghiệm cá nhân, là bí quyết của một Kitô giáo thực sự sống động, mà nó không có lý do để sợ hãi tương lai, bởi vì nó liên tục trở về với những nguồn gốc và tìm được trong đó sự sống mới.”[10]
3- Thờ phượng “trong Thánh Thần”
Chúng ta hãy rút ra một số áp dụng thực hành từ những dẫn nhập trên cho cách thế chúng ta cử hành phụng vụ để có thể hoàn tất một trong những mục tiêu nguyên thủy của nó, nghĩa là sự thánh hóa các linh hồn. Chúa Thánh Thần không cho phép phát minh những hình thức mới hay chủ quan của phụng vụ hoặc thay đổi những hình thức đã có theo sáng kiến của một người (một trách nhiệm thuộc về các giáo sỹ). Chỉ có một Chúa Thánh Thần, tuy nhiên, Người là Đấng luôn canh tân và ban sự sống cho mọi diễn tả của phụng vụ. Nói cách khác, Chúa Thánh Thần không làm gì mới, nhưng Người làm cho mọi sự mới mẻ! Lời Chúa Giêsu được nhắc lại bởi thánh Phaolô: “Chính Thánh Thần ban sự sống” (Ga 6,63; x. 2 Cor 3,6) trước tiên được áp dụng cho tất cả phụng vụ.
Thánh Tông đồ khuyến khích các tín hữu hãy cầu nguyện “trong Chúa Thánh Thần” (Eph 6,18; x. Gđ 20). Cầu nguyện trong Chúa Thánh Thần có nghĩa là gì? Điều này có nghĩa là để cho Chúa Giêsu tiếp tục thực hiện tác vụ tư tế của Người qua Thân thể Người là Giáo hội. Lời cầu nguyện Kitô giáo trở thành sự nới rộng cho “Thân thể” lời cầu nguyện của “Đầu.” Thánh Augustinô có một câu nói rất nổi tiếng:
“Chúa chúng ta - Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa - là Người cầu nguyện cho chúng ta, cầu nguyện trong chúng ta và Người được chúng ta kêu cầu. Người cầu nguyện cho chúng ta như là tư tế của chúng ta; người cầu nguyện trong chúng ta như là Đầu chúng ta; và Người được chúng ta kêu cầu như là Chúa chúng ta. Vì thế chúng ta hãy nhận biết Người trong lời chúng ta và nhận ra lời Người trong chúng ta.”[11]
Trong ánh sáng này, phụng vụ xuất hiện như một “Opus Dei – công trình của Thiên Chúa” không chỉ vì có Thiên Chúa như là đối tượng của phụng vụ mà còn vì có Thiên Chúa như là chủ thể phụng vụ. Thiên Chúa không chỉ được khẩn cầu bởi chúng ta nhưng còn cầu khẩn trong chúng ta. Chính tiếng kêu “Abba!” mà Chúa Thánh Thần đổ xuống trên chúng ta, thưa với Chúa Cha (x. Rm 8,15; Gl 4,6) cho thấy rằng Đấng cầu nguyện trong chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần là Chúa Giêsu, Con Một của Thiên Chúa. Quả thật, Chúa Thánh Thần trong tư cách của mình không thể nói với Thiên Chúa rằng “Abba, Cha ơi”, bởi vì Người không được “sinh ra” nhưng thay vì điều này Người “phát xuất” từ Chúa Cha. Nếu Chúa Thánh Thần có thể làm như thế, điều đó có nghĩa là bởi vì Người là Thánh Thần của Chúa Kitô, Đấng tiếp tục dâng lời cầu nguyện con thảo của mình trong chúng ta.
Đặc biệt là khi lời cầu nguyện của chúng ta trở nên mỏi mệt và phải nỗ lực, chúng ta khám phá tầm quan trọng lớn lao của Chúa Thánh Thần cho đời sống cầu nguyện của chúng ta. Lúc đó Chúa Thánh Thần trở thành sức mạnh của lời cầu nguyện “yếu kém”, là ánh sáng của lời cầu nguyện tẻ nhạt của chúng ta; nói cách khác, Người trở thành linh hồn của lời cầu nguyện chúng ta. Người thực “tưới mát những gì là khô khan – riga quod est aridum”, như chúng ta đọc trong ca tiếp liên kính Chúa Thánh Thần (Veni Sancte Spiritus).
Tất cả những điều này xảy ra nhờ đức tin. Đối với tôi, đủ để nghĩ và nói:
“Lạy Cha, Cha đã ban Thánh Thần của Đức Giêsu cho con; vì thế, khi tuân theo “một Thánh Thần” với Chúa Giêsu, con đọc Thánh Vịnh này, con cử hành thánh lễ này, hay đơn giản con thinh lặng trong sự hiện diện của Cha ở đây. Con muốn dâng cho Cha sự vinh quang, niềm vui mà Chúa Giêsu đã dâng cho Cha như khi Người còn ở trên mặt đất cầu khẩn Cha.”
Chúa Thánh Thần ban sự sống trong một cách thế đặc biệt cho lời cầu nguyện của sự tôn thờ mà nó là trung tâm điểm của mỗi lời cầu nguyện phụng vụ. Đặc tính rõ ràng của nó phát xuất từ sự kiện là tâm tình duy nhất mà chúng ta có thể nuôi dưỡng cách riêng và dành riêng cho các ngôi vị thần linh. Nghĩa là cần phân biệt giữa latria (sự tôn thờ tối cao được dành cho Thiên Chúa) với dulia (sự tôn kính dành cho các thánh) và hyperdulia (sự biệt kính được dành cho Đức Trinh Nữ). Chúng ta tôn kính Đức Trinh Nữ nhưng chúng ta không tôn thờ Người, ngược lại với những gì mà một số người nghĩ về người Công Giáo.
Sự tôn thờ Kitô giáo cũng có chiều kích Ba Ngôi. Chính sự tôn thờ thuộc Ba Ngôi trong cách thế mà nó diễn tả, bởi vì đây là sự tôn thờ được dành “cho Chúa Cha, nhờ Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần; nó cũng có chiều kích Ba Ngôi trong mục đích của nó bởi vì sự tôn thờ được dành “cho Chúa Cha, cho Chúa Con và cho Chúa Thánh Thần” cũng như nhau.
Trong nền tu đức Đông Phương, người đã phát triển chủ đề này một cách sâu sắc nhất là Đức Hồng Y Pierre de Bérulle (1575-1629). Đối với ngài, Đức Kitô là người thờ phượng hoàn hảo của Chúa Cha, Đấng mà chúng ta cần hiệp nhất với Người để thờ phượng Thiên Chúa với một sự tôn thờ theo giá trị vô biên.[12] Ngài viết:
“Từ sự vĩnh cửu có một Thiên Chúa đáng tôn thờ cách vĩnh cửu, nhưng chưa có một kẻ tôn thờ vĩnh cửu… Giờ đây, ôi lạy Chúa Giêsu, Ngài là người tôn thờ đó, là người đó, là tôi tớ đó, Đấng là vô biên trong quyền năng, phẩm chất, và cao cả, và Đấng làm thỏa mãn bổn phận đó và mang lại sự tôn thờ thần linh đó.”[13]
Nếu có điều gì thiếu trong cái nhìn này mà nó đã ban cho Giáo hội hoa trái tuyệt vời như thế và đã khuôn tạo nền tu đức nước Pháp trong nhiều thế kỷ, đó là sự kiện mà chúng ta đề cập trong Hiến chế của Công đồng Vatican II: sự chú ý không đầy đủ dành cho vai trò của Chúa Thánh Thần. Khởi đi từ Ngôi Lời Nhập Thể, khảo luận của Bérulle tiếp tục miêu tả “đoàn người vương giả” đi theo và đồng hành với Người: đó là Đức Trinh Nữ, Gioan Tẩy Giả, các Tông đồ, các thánh. Điều còn thiếu ở đây chính là sự nhận biết về vai trò duy nhất của Chúa Thánh Thần.
Trong mỗi hành động trở về với Thiên Chúa, thánh Basiliô nhắc nhở chúng ta: mọi sự bắt đầu với Chúa Thánh Thần, đi qua Chúa Con và kết thúc với Chúa Cha. Không đủ để thỉnh thoảng nhắc lại rằng cũng có một Chúa Thánh Thần. Chúng ta cần nhận biết vai trò chính yếu của Người vừa cả trong tiến trình của thụ tạo phát xuất từ Thiên Chúa vừa cả trong sự trở về của thụ tạo với Thiên Chúa. Khoảng cách hiện hữu giữa chúng ta và Chúa Giêsu của lịch sử được lấp đầy bởi Chúa Thánh Thần. Không có Người, mọi sự trong phụng vụ chỉ là sự tưởng nhớ; nhưng với Người, mọi sự đều hiện diện.
Trong sách Xuất Hành, chúng ta đọc rằng trên núi Sinai, Thiên Chúa chỉ cho Môsê một hốc đá nơi đó ông có thể ẩn mình để chiêm ngắm vinh quang của Thiên Chúa không bao giờ biến mất (x. Xh 33,21). Hốc đá này là gì đối với chúng ta, những Kitô hữu hôm nay, có phải là nơi mà chúng ta có thể ẩn trốn để chiêm ngắm và tôn thờ Thiên Chúa? Khi chú giải về đoạn sách Xuất Hành này, thánh Basiliô nói với chúng ta rằng: “Đó là ở trong Chúa Thánh Thần! Làm sao chúng ta có thể biết điều này? Nhờ chính Chúa Giêsu đã nói: “Người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và sự thật.”[14]
Viễn tượng thật tuyệt vời, vẻ đẹp thật tuyệt vời, quyền năng thật tuyệt vời, sự hấp dẫn thật tuyệt vời của tất cả quy hướng này về lý tưởng sự tôn thờ Kitô giáo! Ở giữa vòng xoáy ồn ào của thế giới này, ai không cảm nhận được sự cần thiết phải dấu mình trong hốc đá thiêng liêng để chiêm ngắm và tôn thờ Thiên Chúa như Môsê đã làm?
4. Sự nguyện giúp cầu thay
Bên cạnh sự tôn thờ, một yếu tố chính yếu của lời cầu nguyện trong phụng vụ là sự nguyện giúp cầu thay. Trong tất cả lời cầu nguyện của phụng vụ, Giáo hội đang chuyển cầu cho mình và thế giới, cho người công chính và người tội lỗi, cho người sống và người chết. Đây cũng là lời cầu nguyện mà Chúa Thánh Thần muốn làm sống động và gia tăng sức mạnh. Thánh Phaolô viết về Chúa Thánh Thần:
“Hơn nữa, lại có Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả. Và Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can, biết Thần Khí muốn nói gì, vì Thần Khí cầu thay nguyện giúp cho dân thánh theo đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8,26-27).
Chúa Thánh Thần cầu thay nguyện giúp cho chúng ta và dạy chúng ta cũng cầu thay nguyện giúp cho người khác. Khi cầu thay nguyện giúp có nghĩa là nhờ Đức Tin chúng ta hiệp nhất với Chúa Kitô sống lại, Đấng đang sống, trong một tình trạng bất diệt của sự chuyển cầu cho thế giới (Rm 8,34; Dt 7,25; 1 Ga 2,1). Chúa Giêsu ban cho chúng ta một mẫu gương tuyệt hảo về sự chuyển cầu trong lời cầu nguyện tuyệt vời kết thúc cuộc sống trần gian của Người:
“Con cầu nguyện cho họ. Con không cầu nguyện cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho con, bởi vì họ thuộc về Cha. Tất cả những gì của con đều là của Cha, tất cả những gì của Cha đều là của con; và con được tôn vinh nơi họ. Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế gian; phần con, con đến cùng Cha” (Ga 17,9 tt).
Trong sách Isaia, điều này được nói về Người Tôi tớ Đau khổ mà Thiên Chúa muốn ban thưởng cho Người một “phần thưởng của sự cao quý, bởi vì “người gánh tội mọi người và là người chuyển cầu cho mọi phạm nhân” (Is 53,12). Lời tiên báo này được thực hiện trong Chúa Giêsu, Đấng ở trên thập giá đã chuyển cầu cho những ai đóng đinh Người (x. Lc 23,34).
Hiệu quả của sự cầu thay nguyện giúp không lệ thuộc vào “việc nói nhiều lời” (x. Mt 6,7) nhưng vào mức độ của sự hiệp nhất mà một người thực hiện với tâm tình con thảo của Chúa Kitô. Thay vì lẩm bẩm nhiều lời nguyện, sẽ có ích hơn nếu chúng ta cầu xin nhiều người cầu thay nguyện giúp, nghĩa là kêu xin Đức Maria và các thánh giúp đỡ. Trong lễ Các Thánh, Giáo hội xin Chúa lắng nghe nhờ “sự đông đảo những vị chuyển cầu” (multiplicatis intercerssoribus).
Những người cầu thay nguyện giúp cũng được nhân lên khi họ cầu nguyện cho nhau. Như thánh Ambrôsiô nói:
“Nếu bạn cầu nguyện cho mình, bạn sẽ là một người chỉ cầu nguyện cho mình và nếu bất cứ ai cầu nguyện chỉ cho mình thôi, ân sủng đón nhận sẽ ít hơn ân sủng của người cầu nguyện cho người khác. Nếu khi mỗi người cầu nguyện cho mọi người, khi đó từng người đang cầu cho người khác. Như thế, nếu bạn chỉ cầu nguyện cho mình thôi, bạn là người cô đơn trong lời cầu nguyện cho mình. Ngược lại, nếu bạn cầu nguyện cho mọi người, lúc đó mọi người cũng sẽ cầu nguyện cho bạn vì bạn được bao gồm trong mọi người.”[15]
Lời cầu thay nguyện giúp như thế đáng được Thiên Chúa chấp nhận bởi vì là lời cầu nguyện không chút ích kỷ; nó phản chiếu rõ nét sự nhưng không của Thiên Chúa và phù hợp với ý muốn của Người, “Đấng khao khát cho mọi người được cứu độ (1 Tm 2,4). Thiên Chúa như một người cha nhân hậu, người có nhiệm vụ phải xử phạt nhưng cũng là người luôn tìm kiếm mọi điều kiện giảm nhẹ hình phạt để không xử phạt con người và Người vui mừng khi anh em của những kẻ có tội van xin người cha không phạt như thế.
Khi không còn những cánh tay của người anh em được giơ lên hướng về Người, Thiên Chúa phàn nàn trong Kinh thánh rằng: “Người đã thấy chẳng có ai phản ứng. Người ngạc nhiên vì không ai can thiệp” (Is 59,17).
Ngôn sứ Êdêkien chuyển tải những lời phàn nàn sau đây của Thiên Chúa:
“Ta đã tìm kiếm trong bọn chúng một người xây tường và đứng trước nhan Ta, nơi lỗ hổng, để bảo vệ xứ sở, nhằm ngăn cản Ta phá thành, nhưng Ta không tìm ra” (Ed 22,30).
Lời Chúa làm sáng tỏ sức mạnh ngoại thường lời cầu nguyện của người mà Thiên Chúa đặt làm đầu cho dân Người và lời cầu của người có thái độ như Thiên Chúa. Một Thánh Vịnh nói rằng Chúa tính chuyện hủy diệt dân Người bởi vì họ thờ bò vàng, “nếu người Chúa chọn là Môsê chẳng đem thân cản lối, ở ngay trước mặt Người” (Tv 106,23).
Tôi dám gợi ý với các chủ chăn và những vị hướng dẫn thiêng liêng, khi các ngài cảm thấy trong cầu nguyện rằng Thiên Chúa đang nổi giận với dân, Người tin tưởng vào các ngài, xin đừng có đứng một bên ngay lập tức với Thiên Chúa nhưng với dân! Đây là điều mà Môsê đã làm, để can ngăn Người có ý định loại bỏ họ khỏi cuốn sách của sự sống (Xh 32,32). Kinh thánh giúp chúng ta ý thức rằng đó là điều chính xác mà Thiên Chúa mong muốn để Người có thể “từ bỏ dự định tiêu diệt dân Người.” Vì thế, khi ở trước một dân như thế, chúng ta cũng phải đưa ra những lý do với tất cả sự mạnh mẽ với Thiên Chúa. Liền sau lời cầu giúp nguyện thay của mình, khi Môsê ở trước dân, đó là lúc ông bày tỏ cơn giận của mình: ông đập nát bò vàng, tán nhuyễn chúng ra, rắc lên nước và bắt dân uống (x. Xh 32,19 tt). Người duy nhất đã bảo vệ dân trước mặt Thiên Chúa và đảm nhận gánh nặng tội lỗi của họ mới có quyền – và sẽ có can đảm – để sau đó cất cao tiếng nói của mình chống lại họ trong sự bảo vệ của Thiên Chúa như Môsê đã làm.
Chúng ta hãy kết luận bằng việc cùng nhau tuyên xưng bản văn phản ảnh cách tuyệt vời vai trò của Chúa Thánh Thần và chiều hướng Ba Ngôi trong phụng vụ, đó là vinh tụng ca cuối cùng trong Sách Lễ Rôma: “Chính nhờ Người, với Người, và trong Người, mọi vinh quang và danh dự là của Chúa là Cha toàn năng, trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn thủa muôn đời. Amen.”[16]
[1] Benedict XVI, Homily at St. Peter’s Basilica, April 5, 2012. All papal quotes are taken from the Vatican website.
[2] Cf. Ian Ker, “Newman, the Councils, and Vatican II, Communio 28, no. 4 (Winter 2001): pp. 708-728.
[3] Cf. Karl Barth, The Theology of Schleiermacher, ed. Dietrich Ritschl, trans. Geoffrey W. Bromiley (Grand Rapids: Eerdmans, 1982), p. 278.
[4] John Paul II, “A Concilio Constantinopolitano,” n. 7, March 25, 1981.
[6] Giuseppe Alberigo and Joseph A. Komonchak (for the English version), eds., The History of Vatican II, vol. 3 (Maryknoll, NY: Orbis Books, 2000), p. 192 ff.
[7] Sacrosanctum Concilium, n. 7.
[8] St. Basil, On the Holy Spirit 18, 47, trans. David Anderson (Crestwood, NY: St. Vladimir’s Seminary, 1997), pp. 74-75; Cf. also PG 32, 153.
[9] Blessed Isaac of Stella, Letter on the Soul, 23, in The Selected Works of Isaace of Stella, ed. Dániel Deme (Aldershot, UK: Ashgate, 2007), p. 157; Cf. also PL 194, 1888.
[10] John Paul II, Novo millennio ineunte, n. 32.
[11] St. Augustine, Expositions on the Psalms, 85, 1, in Saint Augustine: The Complete Works, vol.III/18, trans. Maria Boulding, ed. John E. Rotelle (Hyde Park, NY: New City Press, 2002), p. 220; Cf. also CCL 39, p. 1176.
[12] Cf. Michel Dupuy, Bérulle, une spiritualité de l’adoration (Tournai: Desclée de Brouwer, 1964).
[13] Pierre de Bérulle, Discours de l’état et des grandeurs de Jésus (1623; reprint, Paris: Éditions du Cerf, 1996). Cf. also Bérulle and the French School: Selected Writings, trans. Lowell M. Glendon (New York: Paulist Press, 1989).
[14] St. Basil, On the Holy Spirit 26, 62 (PG 32, 181ff).
[15] Cf. St. Ambrose, On Cain and Abel 1, 39, vol. 42, The Fathers of the Church (Washington, DC: Catholic University of America Press, 2020), p. 395; Cf. also CSEL 32, p. 372.
[16] Chuyển dịch từ nguồn: https://zenit.org/articles/father-cantalamessas-1st-lent-homily-2016/
No comments:
Post a Comment