Ngày 23.12.2017
Lời Chúa: Ml 3, 1-4.23-24; Lc 1, 57-66
Trong ngày áp lễ Giáng Sinh, chúng
ta suy niệm về sứ vụ ngôn sứ của Gioan Tẩy Giả như là người dọn đường cho Chúa
đến qua trình thuật về ngày sinh nhật của ông. Gioan đã làm gì mà được đề cao như
là một ngôn sứ vĩ đại nhất?
Trước hết, kế tục con đường các
ngôn sứ, Gioan Tẩy Giả xuất hiện như là tiếng kêu trong hoang địa thức tỉnh
lương tâm con người: “Hãy dọn sẵn đường cho Đức Chúa” (Lc 3,4-6). Gioan kêu gọi
dân chúng sám hối và chịu phép rửa để được ơn tha tội. Ông không lôi kéo người
ta về với mình, nhưng ông hướng họ tới chân lý là Đức Kitô. Ông đã lớn tiếng
chống lại những áp bức và bất công xã hội. Ông đề nghị: “Ai có hai áo, thì chia
cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng phải làm như vậy” (Lc 3,11). Ông cũng
yêu cầu những người thu thuế: “Các anh không được đòi hỏi gì quá mức đã ấn
định” (Lc 3,11-14). Và ông còn dám chỉ tay vào vua Hêrôđê mà nói rằng: “Ngài
không được phép lấy bà ấy” (Mt 14,4).
Hơn hết, ông đã chỉ ngón tay mình
về phía Đức Giêsu và nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần
gian” (Ga 1,29). Theo đó, Gioan Tẩy Giả đã khai mở một hình thức mới mẻ của
ngôn sứ Kitô giáo. Trong khi các ngôn sứ khác loan báo ơn cứu độ trong tương
lai, ông cho thấy ơn cứu độ trong hiện tại, lúc này, tại đây nơi Đức Kitô.
Như thế, chúng ta dễ dàng nhận ra
tính chân thực của một ngôn sứ: đó là người thúc đẩy sự thay đổi, lên án những
bất công, dám chỉ tay chống lại những lạm dụng trong mọi hình thức của các quyền
lực tôn giáo, chính trị, kinh tế, quân sự v.v…
Khi nói về ngôn sứ thật và ngôn
sứ giả thời nay, Thomas Merton, một bậc thầy tu đức nổi tiếng ở Mỹ, đưa ra
những tiêu chuẩn để phân định: ngôn sứ giả là người rao giảng về mình, kéo
người khác đến với mình và chạy theo thị hiếu của đám đông. Ông làm ngôn sứ để
được giàu có và nổi tiếng, thích đưa ra câu trả lời hoặc một hướng đi dễ dàng.
Còn ngôn sứ thật là người rao giảng chân lý và hướng người khác tới chân lý, ông
chấp nhận chịu đau khổ vì ơn gọi ngôn sứ, ông nói cho chúng ta biết chúng ta là
ai, và thách thức chúng ta hơn là làm cho chúng ta cảm thấy hài lòng với chính
mình.[1]
Tất cả những điều này muốn nói gì
với chúng ta hôm nay? Trước hết, sứ vụ ngôn sứ của Gioan nhắc chúng ta nhớ lại
sứ vụ ngôn sứ của mỗi người Kitô hữu mà hôm nay đang có nguy cơ bị lãng quên
hoặc bị lệch đường. Chúng ta cần phải giữ cả hai phương diện với nhau của sứ vụ
ngôn sứ: một đàng, ngôn sứ là người vì công lý xã hội và đàng khác, ngôn sứ là
người loan báo Tin Mừng. Nếu việc loan báo về Chúa Kitô mà không được đồng hành
bởi những cố gắng để cải thiện đời sống con người, có lẽ sứ vụ ngôn sứ sẽ không
thiết thực và thiếu sự khả tín.
Nhưng nếu chúng ta chỉ thi hành
sứ vụ ngôn sứ vì công lý mà không hướng tới việc rao giảng Tin Mừng và không có
sự gặp gỡ sống động với Lời Chúa, chúng ta sẽ sớm đối diện với những giới hạn bản
thân và kết thúc chỉ như những người chống đối hay “người gây rối trật tự công
cộng!”
Từ tấm gương của Gioan Tẩy Giả,
chúng ta học biết rằng việc loan báo Tin Mừng và đấu tranh cho công lý cần phải
gắn liền và liên kết với nhau. Sống trong xã hội mà gian dối và lừa lọc lên
ngôi, thật đáng quý trọng nếu mỗi người chúng ta được Tin Mừng Chúa Giêsu thúc
đẩy dám đấu tranh cho sự tôn trọng sự thật, nhân vị và phẩm giá con người; dám lên
tiếng chống lại những bất công xã hội. Nhờ đó, nhân quyền được tôn trọng, môi
trường sống được an toàn để mỗi người có thể “nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên
Chúa.” Nhưng chúng ta cũng phải noi gương Gioan Tẩy Giả không làm ngôn sứ như
là một người gây rối xã hội mà là như một sứ giả Tin Mừng “để làm cho tâm tư
người ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn
sàng đón Chúa” (Lc 1,17). Đó là cách thức thi hành sứ vụ ngôn sứ như là một
cách thế loan báo Tin Mừng, và dọn đường cho Chúa đến trong cuộc sống hôm nay.
Kính chúc quý Cha, quý anh em và gia quyến một mùa Giáng Sinh an lành,
thánh đức, một năm mới dồi dào ân điển của Thiên Chúa. Amen!
[1] Morgan
C. Atkinson – Jonathan Montaldo, Soul
Searching. The Journey of Thomas Merton, Johngarrattpublishing, p. 91-92.
No comments:
Post a Comment