“THƯA BÀ, CHUYỆN ĐÓ CAN
GÌ ĐẾN BÀ VÀ TÔI?”
Trong những suy niệm Mùa Chay, chúng ta tiếp tục hành trình của mình
theo bước chân Đức Maria mà chúng ta đã khởi sự trong Mùa Vọng vừa qua. Đây sẽ
là cách chúng ta phó dâng mình dưới sự chở che của Đức Trinh Nữ trong thời gian
thử thách rất khốc liệt này đối với toàn thể nhân loại vì đại dịch Coronavirus.[1]
Chúng ta phải công nhận rằng Tân Ước không nói nhiều về Đức Maria, ít ra
là không nhiều như chúng ta vẫn chờ đợi, khi quan tâm đến sự phát triển của
lòng sùng kính dành cho Mẹ Thiên Chúa ở trong Giáo Hội. Tuy nhiên, nếu chăm chú
để ý, chúng ta nhận thấy Đức Maria luôn hiện diện trong ba thời điểm quan trọng
nhất tạo nên mầu nhiệm cứu độ. Quả thật, có ba thời điểm đặc biệt đã thiết lập
mầu nhiệm cao cả của ơn cứu độ, đó là: Nhập thể của Ngôi Lời, mầu nhiệm Vượt
Qua và Lễ Ngũ Tuần.
Đức Maria đã hiện diện tại hết thảy cả ba biến cố quan trọng này. Chắc
chắn Mẹ đã hiện diện tại biến cố Nhập Thể, biến cố đã xảy ra ngay chính trong
lòng Mẹ. Đức Maria đã hiện diện tại mầu nhiệm Vượt Qua, bởi vì như được viết,
Mẹ đứng gần thập giá Chúa Giêsu (x. Ga 19,25). Cuối cùng, Mẹ đã hiện diện tại
biến cố Lễ Ngũ Tuần, bởi vì Kinh Thánh chép rằng, Chúa Thánh Thần ngự xuống
trên các Tông Đồ khi họ đồng tâm nhất trí với nhau trong lời cầu nguyện cùng
với Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu (x. Cv 1,14). Sự hiện diện của Đức Maria trong ba
biến cố quan trọng này của ơn cứu độ chúng ta không phải là sự tình cờ. Chúng
bảo đảm cho Mẹ một vị trí duy nhất sau Chúa Giêsu trong công trình cứu chuộc. Đức
Maria là người duy nhất trong toàn thể nhân loại đã chứng kiến và can dự vào
tất cả ba biến cố này.
Trong phần hai của hành trình bước theo Đức Maria nơi mầu nhiệm Vượt
Qua, chúng ta hãy để cho Mẹ hướng dẫn chúng ta tới sự hiểu biết sâu xa hơn và
đồng dự vào cuộc khổ nạn của Chúa Kitô. Xin Mẹ nâng đỡ và khích lệ chúng ta
bước theo Mẹ xuyên suốt hành trình này như Mẹ nói với chúng ta trong tư cách là
hiền mẫu đang nói với những người con chí ái của mình đang tề tựu bên Mẹ, “chúng
ta hãy cùng đi, để chúng ta có thể chết với Người” (Ga 11,16). Trong Tin Mừng, Tôma
đã nói lên những lời này, nhưng chính Đức Maria đã sống những lời đó.
Mẹ học vâng phục từ những đau khổ Mẹ
trải qua
Trong cuộc đời Đức Giêsu, mầu nhiệm Vượt Qua đã không bắt đầu khi Người
bị bắt trong vườn Cây Dầu, và sự kéo dài của nó không chỉ ở trong Tuần Thánh.
Toàn bộ đời sống, từ giây phút Gioan giới thiệu Người như là Chiên Thiên Chúa,
đã là một sự chuẩn bị cho cuộc Vượt Qua. Theo thánh sử Luca, cuộc đời công khai
của Chúa Giêsu đã là một hành trình tiệm tiến và liên lỉ hướng về Giêrusalem,
nơi Người phải hoàn tất cuộc “exodus - xuất hành” của Người (x. Lc 9,31).
Song song với hành trình vâng phục của “Ađam mới,” hành trình của “Evà
mới” cũng được diễn tiến cách tương tự. Đối với Đức Maria, mầu nhiệm Vượt Qua
đã bắt đầu từ rất sớm. Những lời của ông Simêon tiên báo về dấu hiệu chống đối
và một lưỡi gươm sẽ xuyên thấu lòng Mẹ từng bước một đã trở thành hiện thực. Mẹ
đã giữ trong lòng mình tất cả những lời ấy cùng với những lời khác. Mục đích của
bài suy niệm này là dõi theo bước chân của Đức Maria trong cuộc đời công khai
của Chúa Giêsu và chiêm ngắm Mẹ như là mô mẫu cho chúng ta trong thời gian này.
Bình thường điều gì xảy ra khi một tâm hồn được mời gọi tới sự thánh
thiện sau khi đã được đổ đầy ân sủng? Điều gì xảy ra khi tâm hồn ấy đã quảng
đại thưa “vâng” trong đức tin, lại muốn bắt đầu thực hành những việc thiện và
vun trồng các nhân đức? Thời gian thanh tẩy và khổ luyện bắt đầu. Đêm tối đức
tin sẽ xuất hiện. Và chúng ta sẽ nhìn thấy những điều ấy trong hành trình cuộc
sống của Mẹ, Đức Maria là sự hướng dẫn và mô mẫu quý báu cho chúng ta phải hành
xử như thế nào khi chúng ta phải đối diện với “thời gian thử thách” trong đời mình.
Trong Thông điệp Redemptoris Mater, được viết cho Năm Đức Maria, thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chí lý
áp dụng cho cuộc đời của Đức Maria phạm trù kenosis –tự hủy theo nghĩa
rộng, một khái niệm mà thánh Phaolô dùng để minh giải về cuộc đời trần thế của
Chúa Giêsu: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất
quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh
quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl
2,6-7).
Đức Giáo Hoàng viết: “Nhờ đức tin, Đức Maria
được kết hợp hoàn toàn với Chúa Kitô trong sự tự hủy chính mình… Ở dưới chân
thập giá, Đức Maria chia sẻ mầu nhiệm đau khổ của sự tự hủy chính mình này.”[2]
Sự tự hủy ấy được hoàn tất dưới chân thập giá, nhưng nó đã bắt đầu từ rất lâu
rồi. Ngay tại Nadarét và đặc biệt trong suốt cuộc đời công khai của Chúa Giêsu,
Mẹ đã tiến bước trên hành trình đức tin của mình. Rõ ràng Mẹ đã phải chịu đựng “một
nỗi đau buồn đặc biệt của tâm hồn, Mẹ đã nếm trải một dạng đêm tối của đức
tin.”[3]
Tất cả những điều này làm cho các biến cố
liên quan đến Đức Maria mang ý nghĩa đặc biệt đối với chúng ta; nó dẫn đưa Đức
Maria đến gần với Giáo Hội và với nhân loại hơn. Chúng ta phải vui mừng khi
thấy sự tiến triển lớn lao này của việc sùng kính Đức Maria được thực hiện trong
Giáo Hội Công Giáo. Đối với những ai đã trải nghiệm thời gian diễn ra Công Đồng
Vaticanô II thì rất dễ dàng nhận ra điều đó.
Trước Công Đồng, phạm trù nền tảng về sự vĩ
đại của Đức Maria được diễn tả là sự ưu tiên hay là sự ngoại thường (privilege or exemption). Người ta nghĩ rằng, Mẹ được miễn trừ
không chỉ khỏi tội tổ tông và sự hư nát (những đặc ân mà Giáo Hội đã tuyên tín
thành tín điều về ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội và Lên Trời), đồng thời người ta cũng
tin rằng Đức Maria còn được miễn trừ khỏi những đau đớn khi sinh con, khỏi
những mỏi mệt, lo lắng, cám dỗ, vô tri, và tệ hơn, khỏi cả cái chết. Quả thật,
nhiều người đã tin rằng Đức Maria đã không chết trước khi lên trời.
Một thời người ta nghĩ rằng tất cả những điều
này là hậu quả do tội lỗi, nhưng Đức Maria không vướng mắc tội lỗi, nên được
chuẩn chước. Người ta đã không ý thức rằng khi nghĩ như thế, thay vì liên kết
Đức Maria với Chúa Giêsu, họ đã hoàn toàn tách biệt Mẹ khỏi Chúa, dẫu là Đấng
vô tội, Chúa đã muốn trải nghiệm hết tất cả những điều này: mỏi mệt, buồn
phiền, lo lắng, cám dỗ, và cả cái chết vì ơn cứu độ chúng ta.
Những điều này được phản ánh trong nghệ thuật
ảnh tượng diễn tả về Mẹ Diễm Phúc qua các bức tượng, những tranh vẽ và những
hình ảnh, theo cách thức căn bản Mẹ như là một thụ tạo “phi nhập thể” và được lý
tưởng hóa bằng một vẻ đẹp hoàn toàn nhân loại mà bất cứ người phụ nữ nào cũng
muốn sở hữu, nghĩa là như một người phụ nữ làm “nghiêng nước nghiêng thành.”
Ngày nay, từ Công Đồng Vaticanô II, chúng ta
không còn cố gắng diễn tả sự thánh thiện độc nhất của Đức Maria như thế nhờ sự ưu
tiên, nhưng nhờ đức tin. Đức Maria “trổi vượt vì hành trình đức tin
của Mẹ.”[4]
Điều này không làm giảm khinh sự vĩ đại của Đức Maria; nhưng đúng hơn, nó càng làm
gia tăng sự vĩ đại của Mẹ một cách diệu vợi hơn. Trước Thiên Chúa, sự vĩ đại
tâm linh của một con người trong cuộc đời này quả thật không được đo lường bằng
những gì Thiên Chúa ban tặng, nhưng bằng những gì Thiên Chúa đòi hỏi
người đó thực hiện. Và như chúng ta sẽ thấy, Thiên Chúa đã đòi hỏi rất
nhiều nơi Đức Maria, nhiều hơn bất cứ người nào khác, nhiều hơn cả những gì
Người đòi hỏi nơi ông Ápraham.
Trong Tân Ước, có những trình thuật rất ý
nghĩa về Chúa Giêsu. Một trong những trình thuật đó nói rằng: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải
là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử
thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Hr 4,15); một trích
đoạn khác nói với chúng ta rằng: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua
nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Hr 5,8). Nếu Đức Maria đã
bước theo người Con mình trong mầu nhiệm tự hủy (kenosis), những lời này cũng
áp dụng cho Đức Maria và chúng là chìa khóa để hiểu đời sống của Mẹ. Mặc dầu
với tư cách là Mẹ, Đức Maria đã phải học vâng phục nhờ những đau khổ Mẹ đã trải
qua.
Phải chăng Chúa Giêsu đã không vâng phục đủ trong thời niên thiếu hay
Người đã không biết vâng phục là gì, vì thế sau này Người phải học vâng phục
nhờ những đau khổ phải chịu? Không, “học” trong ngữ cảnh này có nghĩa là “biết”
như những gì Kinh Thánh diễn tả, nó nói lên ý nghĩa thực tiễn của “kinh nghiệm”
hoặc “trải nghiệm.” Chúa Giêsu đã sống đức vâng phục và đã lớn lên trong vâng
phục nhờ những đau khổ Người chịu. Thật rất cần thiết phải có một tinh thần
luôn vĩ đại của đức vâng phục để vượt qua những thử thách và cám dỗ khốc liệt, đặc
biệt để vượt qua thử thách lớn nhất là cái chết.
Một cách tương tự, Đức Maria đã học vâng phục và đã tin; Mẹ đã lớn lên
trong cả hai nhân đức nhờ những đau khổ Mẹ trải qua, để chúng ta có thể nói về Mẹ
với tất cả xác tín rằng: chúng ta có một người Mẹ có thể đồng cảm, thấu hiểu
với những yếu đuối, mỏi mệt, và cám dỗ của chúng ta, Mẹ cũng đã bị cám dỗ như
chúng ta, nhưng Mẹ đã không phạm tội.
Đức Maria trong cuộc đời công khai của
Chúa Giêsu
Trong Tin Mừng có những quy chiếu về Đức Maria mà trong quá khứ khi ý
tưởng về sự ưu tiên thống trị, chúng đã tạo nên một sự khó chịu nào đó nơi các
tín hữu; ngày nay, thay vào đó, chúng lại được xem như là mốc điểm ý vị trong
hành hình đức tin của Đức Maria. Vì thế, chúng ta không có lý do gì để coi thường
hoặc lấp liếm bằng những giải thích tùy tiện.
Chúng ta hãy bắt đầu với biến cố lạc
mất Chúa Giêsu trong Đền Thờ (Lc 2,41 tt). Đây là khởi điểm mầu nhiệm Vượt
Qua về sự tước bỏ dành cho người mẹ. Quả thật, Chúa đã nói với Mẹ điều gì khi
hai ông bà đã tìm thấy Người: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con
thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” Người đáp: “Sao cha mẹ
lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” Nhưng
ông bà không hiểu lời Người vừa nói” (Lc 2,49-50). “Sao cha mẹ lại tìm con?” –
những lời này cho thấy có một ý muốn khác biệt giữa Chúa Giêsu và Đức Maria,
một ý muốn tuyệt đối quan trọng, làm cho mọi tương quan khác trở thành thứ yếu,
cả tương quan nghĩa tử với Mẹ, đó là thánh
ý Chúa Cha.
Sau này, Đức Maria được đề cập ở Cana miền Galilêa ngay khi Chúa Giêsu
bắt đầu sứ vụ công khai. Chúng ta đều biết về sự kiện này. Chúa Giêsu đã trả
lời gì khi Đức Maria kín đáo xin Chúa can thiệp? “Thưa bà, chuyện đó có can gì
giữa bà và tôi?” (Ga 2,5). Không là vấn đề để chúng ta cố gắng giải thích những
lời này có ý nghĩa như thế nào, chúng thực sự rất khó nghe và gây tổn thương.
Một lần nữa những lời này như muốn tạo ra khoảng cách giữa Chúa Giêsu và Mẹ
Người.
Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều trình thuật phần tiếp theo này, nó xảy ra
trong sứ vụ công khai của Chúa Giêsu. Một ngày kia, khi Chúa Giêsu đang rao
giảng, mẹ và anh em Người đến nói với Người. Chúng ta hãy hình dung, cũng giống
như bất cứ bà mẹ nào lo lắng cho con, Đức Maria có lẽ đã lo lắng nhiều cho sức
khỏe của Chúa Giêsu, bởi vì những đoạn trước đó kể lại rằng Người đã không thể
ăn uống, ngủ nghỉ vì đám đông (x. Mc 3,20). Một chi tiết nhỏ để cho thấy: Đức
Maria, Mẹ Người, đã phải đến để gặp Người và nói chuyện với Người. Đức Maria đã
không dùng lợi thế là Mẹ Người để áp đặt đám đông tránh ra cho Mẹ đi vào. Trái
lại, Mẹ đứng ở ngoài, và những người khác đã đến nói với Chúa: “Thưa Thầy, có
mẹ và anh em chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy” (Mc 3,33)! Nhưng ở đây cũng
thế, điều quan trọng mà Chúa Giêsu đã nói là gì: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?”
(Mc 3,34).
Hết thảy chúng ta đã biết điều Chúa Giêsu sắp nói rồi. Chúng ta hãy đặt
mình vào vị trí của Đức Maria, và như thế chúng ta mới có thể thấu hiểu sự
khiêm nhường và đau khổ mà những lời này làm cho Mẹ phải chịu. Chúng ta biết rằng
đó là những lời ca ngợi hơn là những lời trách mắng dành cho Mẹ Người, nhưng
chắc chắn Mẹ đã không nhận biết hoặc ít ra Mẹ đã không nhận ra điều đó tại thời
điểm này. Đối với Mẹ đó chỉ là lời từ chối đầy cay đắng. Không có đề cập nào
nói rằng Chúa Giêsu đi ra ngoài để nói với Mẹ. Có lẽ không gì tốt hơn đối với Mẹ
là nên trở về nhà mà không phải gặp hay nói chuyện một lát với con mình. Nhưng Mẹ
vẫn là người đầu tiên hiện diện để nâng đỡ và là người cuối cùng ở lại để chịu
những thiệt thòi, hy sinh.
Một ngày khác, thánh Luca kể, trong lúc Chúa Giêsu đang giảng, thì giữa
đám đông có một người phụ nữ lên tiếng thưa với Người: “Phúc thay người mẹ đã
cưu mang và cho Thầy bú mớm” (Lc 11,27)! Lời tán dương này có lẽ cũng đủ để làm
cho bất cứ bà mẹ nào cảm thấy hạnh phúc, nhưng Đức Maria, nếu Mẹ ở đó hoặc đến
đó để nghe lời này, có lẽ Mẹ đã không thể nghĩ rằng những lời này ca tụng Mẹ,
bởi vì Chúa Giêsu đã điều chỉnh người phụ nữ đó liền và nói: “Đúng hơn phải nói
rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,28).
Chúng ta hãy tìm hiểu thêm một ví dụ cuối cùng. Ở một vài điểm nào đó
trong Tin Mừng, thánh Luca đề cập đến những người phụ nữ đi theo Chúa Giêsu, và
ngài đã gọi tên một số phụ nữ thánh thiện được Chúa chúc lành; họ là những
người đã giúp đỡ Người bằng vật chất (x. Lc 8,2-3), điều này có nghĩa là, họ đã
chăm sóc Chúa và các Tông Đồ về nhu cầu vật chất, như chuẩn bị bữa ăn cho họ,
giặt giũ hay vá áo quần cho họ. Những điều này có liên quan gì đến Đức Maria
không? Đức Maria không hề được đề cập đến trong số những người phụ nữ này. Tất
cả chúng ta đều biết một người mẹ thương con, thường mong muốn như thế nào để
làm tất cả những điều nhỏ nhặt ấy cho con mình, đặc biệt khi người con đó được
thánh hiến cho Chúa. Ở đây, Đức Maria đã không thể. Đó là một sự hy sinh hoàn
toàn từ sâu thẳm lòng Mẹ.
Một loạt những sự kiện và lời nói rõ ràng liên kết với nhau như thế
không thể chỉ là sự tình cờ. Như vậy, Đức Maria phải sống mầu nhiệm tự hủy của
mình. Mầu nhiệm tự hủy của Chúa Giêsu hệ tại ở điều này: thay vì duy trì những
đặc quyền và đặc ân từ Thiên Chúa, Người đã tự hủy chính mình, trở nên một người
tôi tớ và xuất hiện trước mặt mọi người như một người phàm giống như bất cứ
người phàm nào (x. Pl 2,2-8). Mầu nhiệm tự hủy của Đức Maria hệ tại ở điều này:
thay vì duy trì những đặc quyền như là Mẹ của Đấng Mêsia, Mẹ đã tự hủy chính
mình và xuất hiện trước mặt mọi người như là một người phụ nữ giống như bao phụ
nữ khác.
Dẫu là Con Thiên Chúa nhưng Chúa Kitô không được miễn trừ khỏi tất cả
hình thức của nhục hình, cũng thế, dẫu là Mẹ Thiên Chúa nhưng Đức Maria đã
không được miễn trừ khỏi mọi khổ hình. Chúa Giêsu có lần quả quyết rằng Lời
Chúa là phương tiện mà Thiên Chúa dùng để thanh lọc và cắt tỉa những nhành cây:
“Anh em được thanh sạch rồi nhờ lời Thầy đã nói với anh em” (Ga 15,3), và đây
là cách thức Người dùng để “thanh luyện” Mẹ Người. Có lẽ một cách chính xác,
đây không phải là lưỡi gươm mà một ngày kia đã đâm thủng trái tim Mẹ, như
Simêon đã tiên báo đó sao?
Thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria cũng là một kinh nghiệm nhân
loại; có một phương diện cốt nhục đối với thiên chức này trong ý nghĩa tích cực
nhất của hạn từ này. Người con đó là con Mẹ, là kho báu duy nhất của Mẹ, là sự nâng
đỡ và là chỗ dựa tinh thần duy nhất trong cuộc đời Mẹ. Nhưng Mẹ đã phải khước
từ tất cả điều này vốn là những điều “rất người” và rất đáng trân quý vì ơn gọi
của Mẹ. Chính Con Mẹ cũng đã thấy được điều đó, rằng Đức Maria đã không tận hưởng
phúc lợi trần thế từ vai trò làm mẹ. Mặc dầu là Mẹ Chúa Giêsu, Đức Maria đã phải
bước theo Chúa Giêsu mà lẽ ra Mẹ không phải làm như thế. Một khi bắt đầu sứ vụ
mình, Chúa đã không có chỗ gối đầu, và tương tự Đức Maria cũng không có chỗ gối
đầu.
Không chỉ đã sẵn sàng sống sự nghèo khó vật chất, Đức Maria còn sống một
sự nghèo khó tinh thần với một mức độ cao nhất. Sự nghèo khó tinh thần này hệ
tại ở việc đón nhận sự tước đoạt hoàn toàn khỏi mọi sự ưu tiên, không còn tính
đến bất cứ điều gì nữa, không còn quá khứ, hay tương lai, không mạc khải cũng
không còn lời hứa, như thể những điều này không phải là chuyện của Mẹ và không
bao giờ xảy ra. Đó là một dạng của “đêm tối của ký ức.” Sự khó nghèo này hệ tại
trong sự quên mình, hay, tốt hơn, Mẹ không thể nhớ lại quá khứ, không còn là
vấn đề Mẹ đã cố gắng bao nhiêu nữa – và nó hệ tại trong việc đào luyện mình chỉ
hướng về Thiên Chúa và chỉ sống trong niềm hy vọng vào Thiên Chúa mà thôi. Đây
là sự khó nghèo đích thực và tận căn về tinh thần, nó trở nên phong phú chỉ
trong Thiên Chúa và chỉ trong hy vọng.
Hướng về Mẹ mình, Chúa Giêsu đã ứng xử giống như một vị linh hướng vừa
rất khôn ngoan vừa rất đòi hỏi, khi hiểu rằng Người đang làm việc với một tâm
hồn rất đặc biệt, không cho phép tâm hồn này lãng phí thời gian hoặc ở lại trên
một cấp độ thấp hơn giữa những tình cảm và những an ủi tự nhiên. Nếu vị linh
hướng là một người rất thánh thiện, ngài sẽ không ngần ngại kéo tâm hồn này
hướng về sự từ bỏ hoàn toàn để hiệp thông với Thiên Chúa. Chúa Giêsu dạy Đức
Maria từ bỏ chính mình. Người hướng dẫn tất cả môn đệ mình trong mọi thế kỷ nhờ
Tin Mừng, nhưng Người đã hướng dẫn Mẹ Người một cách cá vị và bằng miệng lưỡi
mình.
Một mặt, Người để cho mình được Chúa Cha hướng dẫn nhờ Chúa Thánh Thần
để làm bất cứ điều gì Chúa Cha muốn: bước vào sa mạc để chịu cám dỗ, lên núi để
biến hình, tiến về Giêtsimani để chịu chết. Người nói: “Ta luôn làm đẹp lòng
Người” (Ga 8,29). Mặc khác, Chúa Giêsu cũng đã hướng dẫn Đức Maria theo “cách
thế” đó, là biết thi hành thánh ý Chúa Cha.
Đức Maria, môn đệ của Chúa Giêsu
Đức Maria đã phản ứng như thế nào đối với cách thức Chúa Con và Thiên
Chúa thực hiện nơi mình? Chúng ta hãy đọc lại lần nữa bản văn mà chúng ta đã
đọc. Chúng ta sẽ thấy rằng không bao giờ có dấu vết gì cho thấy ý muốn của Mẹ
đi ngược lại với thánh ý Thiên Chúa hay có sự chống đối hoặc sự biện hộ từ phía
Đức Maria. Mẹ đã không bao giờ cố gắng thuyết phục Chúa Giêsu thay đổi ý định
của Người! Mẹ có một sự ngoan ngùy dường như tuyệt đối.
Ở đây chúng ta thấy sự thánh thiện cá vị độc nhất của Mẹ Thiên Chúa và sự
kỳ diệu cao cả nhất của ân sủng. Để hiểu được điều này, chúng ta chỉ cần so
sánh với thánh Phêrô, chẳng hạn. Khi Chúa Giêsu loan báo cho Phêrô biết rằng từ
chối, đau khổ và cái chết đang chờ Người ở Giêrusalem, Phêrô liền quở trách
Người và nói: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy” (Mt
16,22)! Ông lo lắng cho Chúa Giêsu nhưng đồng thời cũng lo lắng cho mình. Đức
Maria thì không lo lắng cho mình như thế.
Đức Maria ở lại trong thinh lặng. Câu trả lời của Mẹ với mọi điều là sự
thinh lặng của Mẹ. Sự thinh lặng của Đức Maria có một phẩm chất khác. Điều này
thật rõ tại Cana, miền Galiêa, thay vì cảm thấy bị xúc phạm, Đức Maria đã hiểu
được nhờ đức tin và có lẽ nhờ cách thức mà Chúa Giêsu nhìn Mẹ mình để Mẹ có thể
đứng vững, nên Mẹ mới nói với các đầy tớ: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm
theo” (Ga 2,5). Cả sau những lời chói tai mà Chúa Giêsu nói khi cha mẹ Người tìm
thấy Người trong Đền Thờ, Đức Maria đã không hiểu những lời đó, Kinh Thánh cho
biết Đức Maria đã im lặng: “Riêng Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều
ấy trong lòng” (Lc 2,51).
Việc Đức Maria giữ thinh lặng không có nghĩa là mọi sự đều dễ dàng đối
với Mẹ và rằng Mẹ không phải cố gắng để vượt những khó khăn. Mẹ thoát khỏi tội
lỗi, nhưng không thoát khỏi những khó khăn và điều mà thánh Gioan Phaolô II gọi
là “nỗi đau khổ đặc biệt của tâm hồn, tương tự như một dạng đêm tối đức tin.”
Nếu Chúa Giêsu trong vườn Ghếtsêmani đã phải chiến đấu đến mức toát mồ hôi máu
ra để kết hợp hoàn toàn ý muốn nhân loại của Người với ý muốn của Chúa Cha, thì
thật ngạc nhiên biết bao, chẳng phải Người cũng phải đối diện với cơn hấp hối tương
tự như vậy đó sao? Tuy nhiên, một điều chắc chắn: trong bất cứ hoàn cảnh nào, Đức
Maria đã không hề muốn lùi bước. Khi người ta hỏi một số tâm hồn, được Chúa
hướng dẫn trên những nẻo đường như thế, rằng họ có muốn cầu nguyện cho điều đó kết
thúc và trở lại như trước đây không, ngay lập tức họ trả lời: “Không!” Dù họ có
bị xáo trộn như thế nào hay dù có ở bên bờ tuyện vọng.
Sau khi đã chiêm ngắm Đức Maria như là mẹ của Chúa Giêsu, giờ đây chúng ta hãy chiêm ngắm Mẹ như là môn đệ Người. Liên quan đến lời của Chúa
Giêsu: “Ai là mẹ tôi?… Bất cứ ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa là anh, chị em
và là mẹ tôi” (Mc 3,33-35), thánh Augustinô chú giải:
“Đức Trinh Nữ đã không thi hành thánh ý của Chúa Cha đó sao? Mẹ là người
đã tin trong đức tin và nhờ đức tin ấy Mẹ đã thụ thai, vì ơn cứu độ, Mẹ đã được
chọn để được sinh ra cho chúng ta giữa loài người, và Mẹ được tạo thành bởi
Chúa Kitô trước khi Chúa Kitô được tạo thành trong dạ Mẹ đó sao? Đức Maria đã
hoàn toàn thi hành thánh ý Chúa Cha; và vì thế Đức Maria thật xứng đáng để trở
thành môn đệ hơn là Mẹ Chúa Kitô. Trở thành một môn đệ Chúa Kitô là điều xứng
đáng hơn, là sự ưu tiên lớn lao hơn là được làm Mẹ Chúa Kitô. Đức Maria thật
hạnh phúc bởi vì trước khi sinh hạ một người Con, Mẹ đã mang người Thầy ở trong
dạ mình… Điều này lý giải tại sao Đức Maria được chúc phúc, Mẹ đã lắng nghe và
đã thực hành Lời Chúa.”[5] Vì
thế, trong thân xác, chỉ Đức Maria là Mẹ Chúa Kitô, nhưng trong tinh thần vừa là
chị vừa là Mẹ Người.[6]
Như vậy, chúng ta có suy nghĩ rằng cuộc đời của Đức Maria là một cuộc
đời đau khổ triền miên, một cuộc đời buồn thảm chăng? Không, trái lại! Khi so
sánh với cuộc đời của các thánh, chúng ta phải nói rằng ngày lại ngày Đức Maria
đã khám phá một loại niềm vui mới, so với những niềm vui mẫu tử ở Bêlem hay ở
Nadarét, như khi Mẹ cho Chúa Giêsu bú mớm và khi Chúa âu yếm áp lên má Mẹ. Đó
là niềm vui không làm theo ý mình. Niềm vui của đức tin. Niềm vui dành cho Chúa
điều quý giá nhất, cũng như niềm vui được kết hợp với Chúa, có niềm vui cho đi hơn
là đón nhận. Niềm vui khám phá một Thiên Chúa và đường lối Người mà không thể
thấu hiểu hết, vì tư tưởng của Người không phải là tư tưởng chúng ta. Vì thế,
Người đã mạc khải mình như Người thực sự là: Thiên Chúa, Đấng Thánh.
Thánh Angela thành Foligno, một nhà thần bí đã có những kinh nghiệm
tương tự, đã nói về một niềm vui đặc biệt ngay trong giới hạn của sự hiểu biết
con người, ngài gọi là “niềm vui của sự bất khả thấu đạt” (gaudium incomprehensibilitatis).
Điều này hệ tại ở việc hiểu rằng con người không thể hiểu, nhưng nếu Thiên
Chúa, Đấng có thể được hiểu có lẽ không còn là Thiên Chúa nữa. Sự bất khả thấu
đạt mang lại niềm vui hơn là sự buồn phiền bởi vì nó cho thấy rằng Thiên Chúa
giàu có và vĩ đại hơn bất cứ điều gì bạn có thể tưởng tượng và đó là “Thiên
Chúa của bạn!” Niềm vui như thế là điều các thánh chiếm giữ trên thiên đàng và
là điều theo thánh Angela thành Foligno, Đức Trinh Nữ đã kinh nghiệm trong suốt
cuộc đời này.[7]
Từ việc suy niệm về Đức Maria trong suốt cuộc đời công khai của Chúa
Giêsu, chúng ta có thể có một sự bảo đảm an ủi: Chúng ta có một người mẹ là
người đã có thể thấu hiểu những yếu đuối của chúng ta khi Mẹ đã “bị thử thách”
trong từng cách thế giống chúng ta, chỉ trừ tội lỗi. Giờ đây Mẹ được sống vinh
hiển trên trời, bên cạnh người Con mình, Mẹ có thể chìa tay ra và lôi kéo chúng
ta đi vào con đường của Mẹ, Mẹ đang ngỏ với chúng ta lời chân lý mà thánh Tông
Đồ xưa đã nói: “Hãy bắt chước tôi, như tôi đã bắt chước Đức Kitô” (1 Cr 11,1).
Trong thời gian thử thách đau thương này, chúng ta hãy hướng về Mẹ Thiên
Chúa với lời cầu nguyện rất được các tín hữu ưa thích:
Sub Tuum Praesidium confugimus, Sancta
Dei Genetrix.
Nostras deprecationes ne despicias in
necessitatibus nostris, sed a periculis cunctis libera nos semper, Virgo
Gloriosa et Benedicta. AMEN.
(Chúng con trông cậy rất thánh Đức Mẹ Chúa Trời,
xin chớ chê, chớ bỏ lời chúng con nguyện,
trong cơn gian nan thiếu thốn,
Đức Nữ Đồng Trinh hiển vinh sáng láng,
hằng chữa chúng con cho khỏi mọi sự dữ. Amen.)
Cha Raniero Cantalamessa
(Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương dịch)
Mùa dịch Covid 19
Thứ Hai Tuần Thánh 2020
[1] Diễn dịch từ nguồn http://www.cantalamessa.org/?p=3858&lang=en,
với tựa đề “O WOMAN, WHAT HAVE YOU TO
DO WITH ME?” The Kenosis of the
Mother of God.
[2]
Lumen gentium, 58.
[3]
Thomas à Kempis, The Imitation of Christ,
II, 12.
[4]
John Paul II, Salvifici Doloris, 23.
[5] Lumen gentium, 61.
[6]
Cf. St. Augustine, “Letter 55,” 14, 24.
[7]
Cf. Charles Péguy, le Porche du Mystère de la
Deuxième Vertu [The Portal of the Mystery of the Second Virtue] in Oeuvres
Poétiques Complètes, vol. 5 (Paris: Gallimard, 1975), p. 655.
No comments:
Post a Comment