Chúa Nhật XXVII TNA
Lời Chúa: Is 5,1-7; Pl 4,6-9; Mt 21,33-43
Dụ ngôn “Những tên tá điền sát nhân” được Chúa Giêsu trực tiếp kể cho các thượng tế và kỳ mục trong dân Do Thái, được thánh Matthêu viết lại dưới ánh sáng biến cố tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu, được đọc lại trong bối cảnh của thế giới tục hóa hiện nay, quả đúng là một ngụ ngôn, trong đó tất cả các chi tiết đều mang ý nghĩa riêng.
Lời Chúa: Is 5,1-7; Pl 4,6-9; Mt 21,33-43
Dụ ngôn “Những tên tá điền sát nhân” được Chúa Giêsu trực tiếp kể cho các thượng tế và kỳ mục trong dân Do Thái, được thánh Matthêu viết lại dưới ánh sáng biến cố tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu, được đọc lại trong bối cảnh của thế giới tục hóa hiện nay, quả đúng là một ngụ ngôn, trong đó tất cả các chi tiết đều mang ý nghĩa riêng.
1- Ý nghĩa văn tự
Gia chủ là Thiên Chúa; vườn nho là dân Israel, được Thiên Chúa tuyển
chọn làm dân riêng; Chúa đã thiết lập giao ước Xinai với thể chế Môsê để bảo vệ
và hướng dẫn dân này, ví như giậu, bồn đạp nho, vọng gác trong vườn; tá điền
sát nhân là những người Do Thái thất tín, nhất là các nhà lãnh đạo đã đưa dân
vào con đường bội nghĩa; các đầy tớ của gia chủ là các vị ngôn sứ, qua các thời
đã bị đối xử tàn tệ. Người con của gia chủ là chính Chúa Giêsu, bị đóng đinh
trên thập giá bên ngoài thành Giêrusalem. Người Do Thái tưởng giết Chúa Giêsu
để nắm trọn vận mạng dân tộc. Nhưng họ sẽ bị truất quyền và bị trừng phạt; Chúa
ám chỉ sự tàn phá Giêsusalem sau này. Còn Nước Thiên Chúa thì sẽ được ban cho
một dân khác biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi. Dân mới này là Hội Thánh quy tụ
lại từ mọi dân thiên hạ.(1)
2- Ý nghĩa mở rộng
Cũng như
những dụ ngôn khác, dụ ngôn này chứa đựng những ý nghĩa mở rộng. Một đàng, nó
diễn tả tình yêu và lòng thương xót vô bờ bến của Thiên Chúa đối với loài người
qua từng giai đoạn lịch sử cứu độ: từ sáng tạo đến cứu chuộc. Dẫu con người có
bất tín, nhưng Thiên Chúa không bỏ rơi con người, vẫn kiên nhẫn, hiện diện,
đồng hành để vào cuộc cứu độ. Lịch sử cứu độ là lịch sử lòng thương xót của
Thiên Chúa đối với loài người. Thiên Chúa không bỏ cuộc và bị khuất phục bởi sự
dữ, nhưng tình yêu luôn chiến thắng và là lời cuối cùng.
Đàng khác,
dụ ngôn còn diễn tả thái độ cố chấp, bội nghĩa và khước từ của con người qua
mọi thời đại: bắt đầu từ Adong và Evà với tội kiêu ngạo chống lại Thiên, đến
các thế hệ loài người đã quá sa đọa dưới thời Noê và các tiên tri như thời
Isaia, được nói ở trong bài đọc I (Is 5,1-7), đến nỗi làm cho Thiên Chúa phải
hối hận vì đã làm ra con người trên mặt đất (x. St 6,6); “Thiên Chúa mong họ
sống công bình, mà chỉ thấy toàn là đổ máu; đợi chờ họ làm điều chính trực, mà
chỉ nghe tiếng khóc than” (Is 5,7); đến thời Chúa Giêsu, thập giá là bản cáo
trạng lớn nhất về tội ác và sự quay lưng của nhân loại đối với Thiên Chúa. Con
người đã giết chết Con Thiên Chúa.
Thái độ loại
trừ Thiên Chúa trở thành một hệ thống triết học và chính trị vô thần duy vật
chất với những tên tuổi như Feuerbach, Kark Mark. Triết gia hiện sinh vô thần
Nietzsche đã đặt trên môi miệng của một người điên đang xông vào đám người vô
thần lời tuyên bố này: “Thiên Chúa đã chết! Thiên Chúa sẽ mãi mãi chết! Và
chính chúng ta đã giết Người” (Nietzsche, Le
Gai Savoir, Livre troisième, 125). Theo ông, phải giết chết Chúa để chừa
chỗ cho siêu nhân và cho ý chí quyền lực của con người.
Trong bối
cảnh của thế giới hiện đại và hậu hiện đại, dụ ngôn còn soi sáng cho chúng ta
hiểu về thực trạng đáng buồn hiện nay của thế giới, nhất là ở Châu Âu. Đó là
một thế giới bị thống trị bởi hiện tượng tục hóa và giải thiêng; chủ thuyết duy
tương đối hóa lên ngôi như một thứ độc tài mới. Trong thế giới đó, Thiên Chúa
bị quên lãng, bị loại trừ khỏi cuộc sống. Chúa Giêsu đã bị “loại ra khỏi vườn
nho,” khỏi nền văn hóa được gọi là hậu Kitô giáo hay là bài Kitô giáo. Những
lời của các tá điền vườn nho được dội lại trong xã hội tục hóa hôm nay: “Chúng
ta hãy giết người thừa tự và tài sản sẽ thuộc về chúng ta.” Nhân loại bị tục
hóa muốn là người thừa kế và ông chủ. Jean Paul Sartre đã đặt trên miệng một
người có cá tính đặc biệt tuyên bố này: “Không còn gì ở trên thiên đàng nữa, cả
điều tốt lẫn điều xấu, không có ai có thể truyền lệnh cho tôi... Tôi là một con
người, và mỗi con người phải tự khám phá lộ trình của mình.”
Quả thế, thái
độ dửng dưng tôn giáo là thái độ đặc trưng của con người thời nay. Ngày hôm
nay, người ta không còn quan tâm đến vấn nạn có Thiên Chúa hay không; Thiên
Chúa có mấy ngôi như thời các giáo phụ. Thiên Chúa có mấy ngôi thì cứ mặc Người,
tôi không quan tâm. Thiên Chúa có hiện hữu, thì ông cứ hiện hữu trong thế giới
của ông, còn tôi, tôi có thế giới riêng của tôi. Tôi không muốn liên lụy đến
Người.
Như thế, lời
tuyên bố của Nietzsche có phần đúng như một lời tiên tri. Thiên Chúa tự bản
chất không thể chết, vì Người là Đấng Hằng Sống. Nhưng Thiên Chúa “chết” trong
tâm hồn của con người, trong cuộc sống của họ. Nói cách khác, Thiên Chúa phải “biệt
cư” và “bị lưu đày” khỏi tư tưởng con người, khỏi cuộc sống chúng ta; khi Người
không còn là điểm quy chiếu, là lời mời gọi, và bị quên lãng thì cái chết này
chỉ duy nhất xảy ra cùng với cái chết của nhân loại, như lịch sử đã hiển nhiên minh
chứng qua câu chuyện sa ngã của nguyên tổ, cũng như qua các thế hệ loài người
sa đọa. Bởi lẽ, nếu Thiên Chúa chết, thì con người cũng chết. Nơi nào mà niềm
tin vào Thiên Chúa tan biến, thì nơi đó sẽ để lại một sự trống vắng và một sự
lạnh lẽo đến vô tận. Vắng bóng Thiên Chúa, chúng ta hoàn toàn và vô vọng nộp
mình cho số phận, cho sự ngẫu nhiên và cho những con sóng quyền lực, tiền bạc,
danh vọng của dòng đời đưa đẩy. Vắng bóng Thiên Chúa, chúng ta không còn một uy
quyền nào để bám víu. Vắng bóng Thiên Chúa, mọi hy vọng cho một cuộc sống có ý
nghĩa và công bằng hoàn toàn sụp đổ! (2)
3- Ý nghĩa áp dụng
Như thế, khi
suy gẫm đến thái độ từ chối và phản bội này của con người qua các thế hệ không
phải để lên án ai, nhưng là để chúng ta soi bóng mình và trở về với lòng mình:
phải chăng nơi đó chúng ta có thể chứa đựng những mầm mống phản loạn, hay thái
độ dửng dưng vô cảm trước tình yêu và ân sủng của Chúa, khi Người mời gọi vào
làm vườn nho cho Chúa, làm điều Chúa muốn, nhưng chúng ta lại không làm, mà làm
những điều theo ý riêng, theo cám dỗ của xác thịt, thế gian và ma quỷ.
Đồng thời,
dưới ánh sáng của Lời Chúa hôm nay, chúng ta đọc ra “dấu chỉ thời đại về sự
vắng bóng Thiên Chúa” trong xã hội hôm nay, để hun đúc lòng nhiệt thành tông
đồ, say mê tìm kiếm Thiên Chúa, học hỏi và thấm nhuần chân lý đức tin, sẵn sàng
xung vào đội ngũ làm vườn nho cho Chúa trong cánh đồng truyền giáo.
Nhờ lời
chuyển cầu của Đức Maria, mẫu gương về đức tin, nguyện xin Thiên Chúa chúc lành
và ban dư tràn ân sủng cho chúng ta trong hành trình tìm kiếm và làm chứng cho
Người. Amen.
Tài liệu tham khảo:
1) Chú giải của Nhóm Giờ Kinh Phụng Vụ.
2) W. Kasper, Lòng Thương xót, Nxb. Tôn giáo, 2016.