Am
6,1a.4-7; 1 Tm 6,11-16; Lc 16,19-31
Mùa hè năm 2016, nhiều trang mạng đăng tải
hình ảnh thương tâm của một bệnh nhân ở Sơn La chết, vì quá nghèo nên người nhà
phải bó chiếu chở xe máy về quê. Hình ảnh đó khiến cộng đồng mạng xôn xao. Có
ai đó đã tài khéo ghép tượng đài Hồ Chí Minh 1.400 tỷ ở tỉnh Sơn La với cảnh
“người chết bó chiếu.” Bức ảnh này phản ảnh thực trạng bất công của xã hội Việt
Nam hiện nay, một xã hội mà người ta có thể xây dựng “những tượng đài nghìn tỷ,
nhưng sinh mạng con người thì như chiếc móng tay” (Cô giáo Trân Thị Lam).
1- Số phận nhà phú hộ và Ladarô
Bức ảnh trên cũng có gì đó tương tự với dụ
ngôn về nhà phú hộ và anh Ladarô được Chúa Giêsu kể hôm nay. Hai nhân vật có
cuộc sống hoàn toàn tương phản: nhà phú hộ thì một đời “lụa là gấm vóc, ngày
ngày yến tiệc linh đình,” còn Ladarô thì một đời nghèo khó, mình đầy mụt nhọt,
khố rách áo ôm, ăn mày trước cửa đại gia. Tuy nhiên, số phận của hai người bị
đảo ngược sau cái chết: nhà phú hộ phải chịu kiếp trầm luân; còn Ladarô được
vào lòng Ápbraham hưởng hạnh phúc đời đời.
Dụ ngôn này được xếp vào loại “dụ ngôn nói
về khủng hoảng đạo đức” trong xã hội. Trong đó, sự bất công, hố sâu phân cách
giữa người giàu và người nghèo là quá lớn mà hậu quả người nghèo bao giờ cũng
là những nạn nhân của xã hội. Thánh Luca muốn hướng tới một cuộc hoán cải bên
trong để thay đổi cấu trúc xã hội nhằm mang lại sự bình đẳng cho con người.
Chúng ta cần hiểu đúng ý nghĩa của dụ ngôn. Ở đây, Chúa Giêsu không có ý muốn
nói rằng: tất cả mọi người giàu có đều bị kết án và đáng phạt trong hỏa ngục,
còn tất cả những ai nghèo khó thì chắc chắn sẽ được hưởng hạnh phúc thiên đàng.
Chúa Giêsu cũng không lên án của cải và sự giàu có. Kitô giáo không cổ xúy cho
sự bần cùng hóa con người và kết án những ai giàu có trong xã hội.
Trái lại, như chúng ta biết, của cải tự
thân là ân sủng Chúa ban để giúp chúng ta sống đúng nhân phẩm của mình. Triết
gia Công giáo Blaise Pascal nói đến ba bậc của sự cao cả trong cuộc sống: bậc I
thuộc giá trị vật chất và thể lý: của cải, sức khỏe, sắc đẹp tự thân nó có một
giá trị không ai phủ nhận, ai cũng mong ước. Bậc II thuộc giá trị tài năng mà
các nhà tư tưởng, các nghệ nhân, các thiên tài nắm giữ... tài năng họ khiến mọi
người nể phục và ước ao. Nhưng đó chưa phải là bậc cao nhất. Bậc III thuộc giá
trị tình yêu và ân sủng. Đây là bậc cao nhất, đẹp hay xấu, giàu hay nghèo không
thêm không bớt gì nơi một vị thánh. Thánh thiện cao cả hơn tài năng và giàu có,
khỏe mạnh.
Chúa Giêsu không lên án của cải vật chất và
tài năng, nhưng Người tiếp nối truyền thống các tiên tri, lên án thái độ của những người chỉ biết
hưởng thụ ích kỷ nhưng lại dửng dưng, vô cảm đối với người nghèo. Đó là một tội
ác.
Trong bài
đọc I, tiên tri Amốt lên án những người chỉ biết hưởng thụ, xa hoa mà không
biết thương xót những người khốn khổ và tiên báo những sự trừng phạt khủng
khiếp dành cho họ.
Trong
dụ ngôn, người phú hộ bị trầm luân không phải vì một tội nào như tham nhũng,
buôn lậu, hay bóc lột. Nhưng vì ông đã dửng dưng vô cảm đối với Ladarô
nghèo khó. Như thế, dụ ngôn muốn gửi tới chúng ta thông điệp: Cuối cùng, Thiên
Chúa sẽ xét xử chúng ta dựa trên những gì chúng ta thực thi cho người nghèo
khó. Điều này được Tin Mừng thánh Mátthêu làm rõ trong tường thuật về ngày phán
xét chung (Mt 25,35-45): “Những gì các ngươi làm cho những người bé mọn nhất,
là các người làm cho chính Ta.”
Theo nghĩa này, thánh Gioan Kim Khẩu đã
nói: “Không chia sớt của cải cho người nghèo là ăn cắp của họ và
lấy đi kế sinh nhai của họ. Của cải chúng ta giữ không phải là của
riêng chúng ta, mà là của họ” (trích lại trong Evangelii Gaudium, số 57).
2- Người giàu và người
nghèo hôm nay
Câu chuyện người phú hộ và anh Ladarô nghèo
cho phép chúng ta liên tưởng đến bức tranh toàn cảnh thế giới hôm nay. Có lẽ hơn
bao giờ hết, con người ngày nay có nhiều của cải vật chất, nhưng lại thiếu tình
thương liên đới với nhau, của cải chỉ tập trung vào một số nước và một số
người. Cơ chế kinh tế thị trường hôm nay càng tạo ra hố sâu ngăn cách ngày càng
sâu giữa nước giàu và nước nghèo, giữa người giàu và người nghèo, giữa nông
thôn và thành thị. Chúng ta chứng kiến cảnh những ngôi nhà chọc trời bên cạnh những
khu nhà ổ chuột và những người khố rách áo ôm, buôn thúng bán mẹt; cảnh những
đại gia chi tiêu hàng chục triệu mua một chai rượu cho một bữa tiệc, trong khi
đó có biết bao người ngày hai bữa ăn cũng không có; cảnh các quan chức có những
cái bắt tay hàng tỷ bạc, trong khi có rất nhiều người đổ mồ hôi sôi nước mắt
suốt ngày mà không đủ sống.
Nguyên nhân của sự bất công, bất bình đẳng
giữa người giàu và người nghèo là do sự ích kỷ, vô cảm và tệ nạn tham nhũng.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô lên tiếng về “thái độ vô cảm toàn cầu” này, đó là thái
độ vô cảm vô can trước đau khổ và khó khăn của tha nhân. Giáo Hội chọn đứng về
phía người nghèo để bênh vực và đồng hành với họ.
Sống trong một xã hội như thế, dụ ngôn hôm
nay như lời thức tỉnh lương tâm ngái ngủ chúng ta trước thảm cảnh nghèo đói.
Chúng ta được mời gọi cởi mở tâm hồn đối với những ai đau khổ, nghèo đói, bị
thương tổn để giúp đỡ họ. Chúng ta hãy để cho dụ ngôn này đào luyện
lương tâm mình để chúng ta có những cảm thức và nhạy bén với nỗi thống khổ của
người nghèo giống Chúa Giêsu, cũng như biết đứng về phía họ để phục vụ theo đức
ái Kitô giáo. Amen.
BÀI II
YÊU THƯƠNG LÀ TRUYỀN GIÁO
Am 6,1a.4-7; 1 Tm 6,11-16; Lc 16,19-31
Trong bài đọc thứ II, thánh Phaolô dành cho
Timôthê và cả cho chúng ta những lời khuyên từ đáy lòng ngài. Trên hết mọi sự,
thánh Phaolô khuyên “phải tuân giữ điều răn của Chúa mà sống cho tinh tuyền,
không chi đáng trách” (1 Tm 6,14). Ngài chỉ nói về một giới răn. Điều này có
nghĩa là ngài muốn chúng ta phải tập trung vào điều chính yếu của đức tin. Mọi
điều khác xoay xung quanh tâm điểm này, đó là lời loan báo mầu nhiệm Vượt Qua: “Chúa
Giêsu sống lại, Người yêu mến và hiến mình cho bạn.” Chúng ta không bao giờ
được quên điều đó. Chúng ta hãy loan báo về sứ điệp tình yêu mới mẻ này: “Chúa
Giêsu thực sự yêu mến bạn. Bạn hãy dành cho Người cơ hội để yêu bạn. Người
không thất vọng về bạn dù bạn có những bất toàn.”
Giới răn mà thánh Phaolô đang nói ở đây là
giới răn mới của Chúa Giêsu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương
anh em” (Ga 15,12). Khi yêu thương nhau, chúng ta sẽ loan báo cho thế giới biết
Thiên Chúa là tình yêu, không phải nhờ sức mạnh của tài hùng biện, càng không phải
do việc áp đặt chân lý, hay tuân giữ tốt các luật đạo đức, nhưng là nhờ đời
sống bác ái đối với tha nhân. Chúng ta rao giảng Thiên Chúa nhờ việc gặp gỡ tha
nhân, bằng sự quan tâm, tận tụi, đồng hành và lắng nghe họ để phục vụ. Bởi vì Thiên
Chúa không phải là một ý tưởng, nhưng là một Ngôi Vị sống động: sứ điệp của Người
được truyền bá nhờ chứng tá khiêm tốn và phục vụ, nhờ việc lắng nghe và hiếu
khách, với niềm vui lan tỏa ra bên ngoài. Chúng ta không thể làm chứng một cách
hiệu quả về Chúa Giêsu khi chúng ta mang một khuôn mặt buồn rầu, ảm đạm; chúng
ta không thể chuyển tải vẻ đẹp của Thiên Chúa chỉ với những lời nói suông hay
chỉ nói thao thao bất tuyệt. Chúng ta rao giảng Thiên Chúa bằng việc thể hiện
tình yêu Tin Mừng trong giây phút hiện tại đối với mọi người, bằng những cách thế
mới, nhiệt tâm mới và phương pháp mới.
Bài Tin Mừng Chúa Nhật này giúp chúng ta
hiểu bác ái là gì và nhất là tránh những thái độ vô cảm và vô can đối với người
nghèo. Trong dụ ngôn, nhà phú hộ đã không để ý gì tới Ladarô, một người nghèo ở
trước cổng nhà ông (Lc 16,20). Dụ ngôn không nói nhà phú hộ này đã thực sự phạm
tội gì đối với mọi người, không có gì để nói rằng ông ta là một người xấu.
Nhưng ông có một căn bệnh lớn hơn cả căn bệnh của Ladarô, người “ghẻ chốc đầy
mình,” đó là căn bệnh mù lòa, vì ông
không nhìn thấy gì khác ngoài thế giới của ông, thế giới của “ngày ngày yến tiệc
linh đình và lụa là gấm vóc.” Ông không nhìn thấy ngoài cửa nhà mình có Ladarô
đang nằm ở đó, những gì xảy ra ở ngoài thì ông không quan tâm. Ông không nhìn
thấy những cảnh đời đáng thương bên cạnh ông, bởi vì trái tim ông không biết rung
cảm trước nỗi đau của người khác. Tâm hồn ông đã trở nên chai đá bởi vì sự thơ
ơ vô cảm đã ngự trị trong ông. Sự dững dưng vô cảm này đã xóa bỏ lòng bác ái
nơi ông, chỉ thích hưởng thụ cách ích kỷ. Và như thế ông không còn quan tâm đến
người khác, trở nên dửng dưng với mọi người. Những người như thế thường dễ có
thái độ “lệch lạc”: thích nổi danh, thích chơi sang, thích được mọi người ca
tụng, nhưng vô cảm đối với những nghèo khổ.
Sự vô cảm của con người hôm nay là nguyên
nhân tạo ra những hố sâu khác biệt rộng lớn như biển cả giữa người giàu và
người nghèo. Sự dửng dưng, ích kỷ và tinh thần trần tục xâm nhập con người như
những thứ bệnh nan y và truyền kiếp. Giá như con người biết thương yêu nhau hơn
thì cuộc đời này bớt khổ hơn, ít nước mắt hơn.
Nhưng Thiên Chúa nhìn đến những ai thiếu
thốn và bị loại trừ ra ngoài xã hội. Ladarô là một người duy nhất được nói
trong dụ ngôn của Chúa Giêsu. Tên của anh có nghĩa là “Thiên Chúa cứu.” Thiên
Chúa không quên anh, Người sẽ đón tiếp anh vào bàn tiệc Nước Trời, cùng với Ápbraham,
trong sự hiệp thông với tất cả những ai đau khổ.
Người giàu có trong dụ ngôn thì ngược lại,
ông không có tên; cuộc sống của ông qua đi và bị quên lãng, bởi vì bất cứ ai
chỉ sống cho mình thì không viết nên lịch sử đời mình. Mỗi người Kitô hữu phải
viết nên lịch sử đời mình nhờ sống theo Tin Mừng. Chúng ta phải ra khỏi chính mình,
để viết nên lịch sử đời mình để không sống như nhà phú hộ kia. Bởi lẽ, rốt
cuộc, mọi sự sẽ qua đi, sức khỏe, sắc đẹp, tiền của không thể ở lại với chúng
ta mãi mãi, nhưng cái còn lại mãi mãi là gì nếu không phải là lòng nhân ái và
tình người.
Có một chi tiết khác trong dụ ngôn rất
tương phản. Cuộc sống sang trọng của nhà phú hộ này được miêu tả như một thế
giới sung túc, hoành tráng, tất cả là vì ông, nhưng khi chết, ông lại trắng
tay, phải xin xỏ để có được một ân huệ nho nhỏ nào đó. Ngược lại, cuộc sống của
Ladarô thì quá nghèo, nhưng sự nghèo khó đó gắn liền với một phẩm giá cao cả. Anh
không hề mở miệng phàn nàn, hoặc phản đối, hay có những lời kinh bỉ. Đây là bài
học rất giá trị: như những sứ giả của Lời Chúa, chúng ta được mời gọi đừng có
phô trương vẻ bên ngoài và cũng đừng tìm kiếm vinh quang cho mình, đừng tỏ ra buồn
phiền hay cứ luôn phàn nàn tiêu cực. Chúng ta đừng là những ngôn sứ buồn bã,
tiêu cực, người chỉ thích xoi mói những chuyện xấu hay những sai lầm của người
khác. Chúng ta đừng là những người chỉ biết thu mình trong thế giới riêng, rồi có
những xét đoán tiêu cực về xã hội, về Giáo Hội, về mọi thứ cũng như về mọi người,
làm ô nhiễm môi trường đang sống chỉ vì thái độ tiêu cực đó. Chủ nghĩa hoài
nghi quá đáng không phù hợp với những người rao giảng Lời của Thiên Chúa.
Bất cứ ai loan báo niềm Tin Mừng Chúa Giêsu
phải là người mang niềm vui, là người nhìn thấy chân trời rộng mở ở phía trước
mà không một bức tường nào ngăn cản. Đồng thời, họ cảm thấy rất gần gũi với
những người xung quanh và nhạy bén với những khát vọng của người khác. Chúa
đang đòi hỏi điều này nơi chúng ta hôm nay: trước những Ladarô thời đại, chúng
ta dám chấp nhận bị quấy rầy và bất ổn để tìm cách gặp gỡ, giúp đỡ họ, mà không
thoái thác cho người khác khi nói: “Ngày mai, tôi sẽ giúp anh, vì hôm nay tôi
không có giờ.” Theo Tin Mừng, không giúp đỡ người khác là một tội trọng. Thời
gian dùng để giúp người khác là thời gian dành cho Chúa Giêsu. Lòng bác ái sẽ
tồn tại mãi. Gia tài của chúng ta ở trên trời, nhưng chúng ta phải tìm kiếm
phần thưởng thiên đàng ở dưới đất, nơi những người nghèo.
Vậy, chúng ta hãy nguyện xin Chúa ban ân
sủng để làm mới lại mỗi ngày niềm vui loan báo Tin Mừng: “Chúa Giêsu chết và
phục sinh. Chúa Giêsu yêu bạn!” Ước gì Người ban cho chúng ta sức mạnh để thực
hành giới răn yêu thương, vượt thắng sự mù lòa tâm linh và tinh thần thế tục.
Ước gì Người làm cho chúng ta biết nhạy bén với những nỗi đau của người khác và
sẵn sàng giúp đỡ họ. Amen!
No comments:
Post a Comment