Công cuộc đào tạo và huấn luyện linh mục đóng một vai trò rất quan trọng trong Giáo Hội. Vì thế, Giáo Hội luôn quan tâm đến sứ vụ cao cả nhưng cũng rất khó khăn này. Tương lai của Giáo Hội tùy thuộc rất nhiều nơi việc huấn luyện ơn gọi linh mục ở Đại Chủng Viện.
Trong ý thức đó, nhân dịp mừng kỷ niệm 25 năm Đại Chủng Viện Vinh – Thanh được thành lập, người viết muốn gợi lên những suy nghĩ về việc đào tạo linh mục để có thể góp thêm ý nghĩa và định hướng cho công cuộc đào tạo nhân sự cho hai giáo phận tại Đại Chủng Viện.
Quá trình đào tạo là một quá trình mang tính năng động, tiệm tiến và sư phạm, được diễn tả qua ba khái niệm: giáo dục, huấn luyện và đồng hành.
1. Giáo dục
Theo nguyên từ, giáo dục trong tiếng Latinh – educere - có nghĩa là dẫn ra, phân biệt ra, làm cho rõ. Theo nghĩa đó, giáo dục là “đào bới”, “lôi ra”, hoặc đưa ra sự thật con người của mình lên bình diện ý thức, sự thật mà ta ý thức hay không ý thức. Giáo dục là giúp một người nhận biết chính mình, ý thức về sự thật chính mình, khám phá những tiềm năng và nhược điểm, đồng thời giúp người thụ huấn phát huy các tiềm năng con người một cách tối đa và tự thể hiện mình một cách đầy đủ.
Giáo dục phải đụng chạm tới toàn bộ con người của người thụ huấn. Theo Tông Huấn về Đời Sống Thánh Hiến, việc giáo dục “phải quan tâm đến toàn thể con người, tức là mọi khía cạnh trong nhân cách, hành vi và ý hướng của người thụ huấn” (Vita consecrata, tr. 65).
Nếu một nền giáo dục chỉ nhấn mạnh hay chỉ tập trung vào việc huấn luyện các kỷ năng và cung cấp kiến thức, hoặc chỉ chú trọng giáo dục phần bên ngoài con người thụ huấn, thì nền giáo dục đó có nguy cơ bị giảm thiểu, thiếu tính toàn vẹn và không mang lại sự biến đổi bên trong con người của người thụ huấn. Công cuộc đào tạo linh mục không phải là đào tạo các ‘công chức’ hay các ‘chuyên viên’ cho Giáo Hội mà là đào tạo những “con người của Thiên Chúa và của Giáo Hội”.
Giáo dục phải là một quá trình giúp người thụ huấn biến đổi toàn bộ con người mình: từ hành vi, thái độ, tình cảm, động lực thúc đẩy và cả chiều sâu thẳm của lòng họ. Theo tiến trình này, giáo dục là giúp người thụ huấn khám phá và nhận thức một cách chính xác các hành vi, cử chỉ, lời nói, sở thích, tập quán, thói quen, thái độ sống, lối phản ứng trước một hoàn cảnh, trước một sự kiện. Những hành vi và thái độ sống này có phù hợp với các giá trị và lý tưởng tu trì không?
Không dừng lại ở bên ngoài và hài lòng với những gì thay đổi ở bên ngoài, người thụ huấn phải được giáo dục từ bên trong là chính con tim của mình, nghĩa là họ được giúp đỡ để nhận biết tình cảm và cảm xúc sâu xa bên trong, kể cả những cảm xúc mà mình không ý thức. Giáo dục là giúp họ nhận ra trong họ những tình cảm “hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục” có phù hợp với đời tu không? Từ đó giúp họ thay đổi, trưởng thành về tình cảm và cảm xúc của mình.
Sâu hơn nữa, người thụ huấn cũng phải được giáo dục cả về động lực thúc đẩy. Việc giáo dục không dừng ở chỗ hướng dẫn họ “làm gì” mà còn phải giáo dục họ nhận thức được “tại sao tôi làm”, “động lực nào thúc đẩy tôi hành động?” Từ việc nhận biết các động lực thúc đẩy, người thụ huấn nhận ra những khuynh hướng đang lèo lái đời sống của họ: khuynh hướng quy ngã, quy xã hội, cá nhân chủ nghĩa, lập dị, thích tiền hay quyền lực, gây hấn, hay quá khích, ấu trĩ hay nhu nhược … và cả sự mơ hồ trong chọn lựa căn bản.
Việc giáo dục phải quan tâm đến tất cả những yếu tố làm nên “con người thật” của ứng sinh. Theo ngôn ngữ chuyên môn, các nhà tâm lý giáo dục gọi đây là “cái tôi hiện tại – actual self” của ứng sinh. Do đó, việc huấn luyện phải can thiệp trực tiếp vào cái tôi hiện tại của người thụ huấn. Giáo dục là lôi ra ánh sáng những gì không phù hợp, những gì là “ấu trĩ” và thiếu trưởng thành của người thụ huấn.
Quả thế, đây là một quá trình trở về với chính bản thân, nhận biết mình, khám phá bản thân, chấp nhận chính mình và thay đổi chính mình. Tiến trình này được thực hiện trong khó khăn, dài thăm thẳm, tiệm tiến và rất năng động. Theo nghĩa này, công cuộc đào tạo không phải là một cuộc dạo chơi trong công viên mà là một hành trình đầy gian khó đi về Giêrusalem như hành trình của Đức Giêsu. Và đây là logic mầu nhiệm thập giá xảy ra trong việc huấn luyện: phải qua đau khổ để tới Phục Sinh vinh quang. Giáo dục phải đi qua kinh nghiệm của ngày Thứ Sáu để tới ngày Chúa Nhật phục sinh. Nếu ai muốn bước vào quá trình siêu việt chính mình và hoàn thiện bản thân có nghĩa người đó phải chấp nhận bị tổn thương, gột rửa và lột xác con người của mình. Chấp nhận thay đổi cấu trúc con người, động lực, tình cảm, lối suy nghĩ và cách hành động của mình để có thể tới một giai đoạn khác mà ta gọi đó là giai đoạn huấn luyện.
2. Huấn luyện: formation
Giáo dục mà thôi thì chưa đủ. Cần có huấn luyện. Trong tiếng latinh động từ formare có một ý nghĩa đặc biệt: “đưa ra một khuôn mẫu, tạo một hình thức”. Theo đó, việc huấn luyện là đưa ra một gương mẫu rõ ràng mà người thụ huấn được mời gọi phải hướng tới và cưu mang trong lòng. Đó là một thể thức hay một lối sống mới mà họ chưa có, nhưng họ phải đạt tới một cách tiệm tiến, và đó cũng là yếu tố làm nên căn tính mới nơi họ. Theo nghĩa này, huấn luyện không chỉ là năng động tự thể hiện (self-realization), mà còn là năng động tự siêu việt (self-transcendence) theo một khuôn mẫu hoặc một lý tưởng. Huấn luyện không chỉ dừng lại ở việc biết mình hay chiêm ngắm bản thân, mà còn phải hướng tới việc khám phá và hình thành cái tôi lý tưởng (ideal self) mới mẽ và đích thật của mình.
Chính vì thế, trong các tài liệu về đào tạo linh mục và tu sĩ[1], Giáo Hội chọn mô hình Chúa Con làm khung quy chiếu cho dự phóng huấn luyện. Theo đó, Đức Giêsu Kitô là khuôn mẫu lý tưởng mà người thụ huấn luôn được mời gọi để trở nên đồng hình đồng dạng với Người[2]. Như lời thánh Augustinô nói: Chúng ta không chỉ thuộc về Chúa Kitô, mà còn “trở nên như Chúa Kitô” (Vita consecrata, tr. 109). Huấn luyện phải là quá trình thực hiện lời mời gọi của Thánh Phaolô: “Anh em hãy bén rễ sâu và xây dựng đời mình trên nền tảng là Đức Kitô Giêsu” (Cl 2,7).
Nói cách khác, việc huấn luyện là một tiến trình xây dựng nơi người thụ huấn con người mới trong Đức Kitô, hình thành nơi họ cách sống mới, thái độ mới, lối suy nghĩ mới, tâm tình và ước muốn của chính Đức Kitô. Vì thế, việc huấn luyện không được hiểu như là một sự bắt chước bên ngoài, nhưng là sự trở nên giống từ bên trong, là “mặc lấy những tâm tình của Chúa Kitô như Người đã biểu lộ với Chúa Cha”[3].
Nếu nói quá trình giáo dục là chết đi con người cũ, thì quá trình huấn luyện là phục sinh con người mới trong Đức Kitô. Nếu trong cuộc đời Đức Giêsu Mầu Nhiệm Tử Nạn gắn liền với Mầu Nhiệm Phục Sinh, thì trong quá trình huấn luyện hai mầu nhiệm này cũng rất gắn bó với nhau. Phải chấp nhận thay đổi, tự hủy, chết đi thì mới phục sinh con người mới, con người nhân đức và thần khí.
Việc huấn luyện chỉ có hiệu quả thực sự khi có sự biến đổi nơi ứng sinh. Việc huấn luyện giúp ứng sinh nhận ra căn tính của mình nơi Chúa Kitô. Chân – thiện – mỹ của giá trị dần dần trở thành chân – thiện – mỹ của chủ thể. Tâm tình của Chúa Kitô ngày càng trở nên tâm tình của người thụ huấn. Huấn luyện là để cho Thiên Chúa uốn nắn thái độ, lời nói, ý nghĩa và ước muốn của mình mỗi ngày nên giống Chúa Kitô.
Chính việc huấn luyện này tác động trên trái tim, để họ say mê Thiên Chúa; tác động trên trí tuệ, để họ có thể chiêm ngắm và tìm kiếm Thiên Chúa; và tác động trên ý chí, để họ biết khát khao như Thiên Chúa khao khát.
3. Đồng hành - accompagnement
Từ thời Trung Cổ, hạn từ đồng hành trong tiếng Latinh là cum-panio, có nghĩa là “chung một tấm bánh”. Tự bản chất, đồng hành có nghĩa là chia sẻ. Vì thế, việc đồng hành với người thụ huấn muốn sống đời sống tu trì không chỉ là hướng dẫn họ trong đời sống tâm linh, dạy dỗ, hay thiết lập tương quan một chiều với họ, nhưng là cùng nhau thực hiện hay cử hành và chia sẻ kinh nghiệm đức tin. Đồng hành không chỉ có nghĩa là đi bên cạnh người khác trên một quảng đường nhất định, mà là cùng nhau bước đi trên đường, cùng nhau chia sẻ “của ăn đàng” là đức tin, kinh nghiệm về Thiên Chúa và sự khôn ngoan của Thánh Thần.
Theo nghĩa đó, toàn thể tiến trình huấn luyện không chỉ là truyền đạt hay chỉ cho biết con đường phải đi, mà là một kinh nghiệm dấn thân và “tuyên xưng” đức tin của nhà huấn luyện với người thụ huấn.
Lối đồng hành này là hình thức mà Chúa Giêsu đã thực hiện trên đường Emmaus và là hình tượng của mọi việc đồng hành trong đức tin. Chúa Giêsu gặp gỡ, cùng bước đi với họ, trò chuyện với họ, nói cho họ nghe những chuyện xảy ra và giải thích cho họ hiểu các sự kiện dưới ánh sáng Lời Chúa. Rồi sau đó, cùng với họ Ngài “bẻ bánh”, họ nhận ra Ngài, lòng họ bừng lên, mắt họ sáng ra và liền quay trở về Giêrusalem để loan báo cho mọi người biết Chúa đã sống lại (x. Lc 24, 13-35).
Người đồng hành không phải là người quyết định ơn gọi của người thụ huấn, cũng không phải là người nắm giữ mọi “bí mật” về tương lai của ứng sinh. Người đồng hành đóng vài trò của Gioan Tẩy Giả, người đưa môn đệ mình tới gặp Chúa, giới thiệu họ với Chúa, rồi từ từ rút vào bóng tối, để “Người lớn lên, còn tôi nhỏ lại” (Ga, 3,30).
Tuy nhiên, việc đồng hành tiên vàn là phương thức hành động của Chúa Thánh Thần, “vị khách dễ thương của linh hồn”, người bạn đường thần linh của chúng ta và là nhà điêu khắc nội tâm, Đấng uốn nắn khuôn mặt mỗi người theo hình ảnh Chúa Kitô một cách vô cùng sáng tạo.
“Chúa Thánh Thần luôn hiện diện bên cạnh mọi người nam nữ, để giúp họ nhận ra căn tính của mình là những kẻ tin và được kêu gọi, để nhào nặn và tạo cho họ có một căn tính rập theo kiểu mẫu của tình yêu Thiên Chúa. Là Thánh Thần thánh hóa, Người tìm cách tái tạo dấu ấn thần linh nơi mỗi người, giống như một người thợ điêu luyện và kiên nhẫn của linh hồn chúng ta, và là Đấng an ủi tuyệt vời”[4].
Do đó, điều cơ bản là người thụ huấn phải cảm nhận Chúa Thánh Thần như là bạn trung tín của mình, như là Đấng sẽ giúp họ am hiểu toàn vẹn và sự khôn ngoan của trái tim, như một người dẫn đường đăm đăm nhìn về Chúa Giêsu và những kẻ được kêu gọi, để làm cho họ trở thành chứng nhân của Chúa Giêsu.
Một khi người thụ huấn nhận biết và cảm nghiệm Chúa Thánh Thần như là “bạn đường”, họ sẵn sàng đón nhận những người đồng hành mà không đòi hỏi người đồng hành phải hoàn hảo; họ dễ dàng đón nhận những phương tiện, điệu kiện và cả những giới hạn nhân loại của người đồng hành. Hễ ai tin cậy Chúa Thánh Thần thì cũng tin cậy những trung gian của Người; hễ ai biết phó mình trong tay Chúa Thánh Thần thì không lo sợ khi chia sẻ lịch sử đời mình với người đồng hành trong sự cởi mở, tin tưởng và phó thác.
Như thế, khi suy nghĩ về quá trình giáo dục, huấn luyện và đồng hành, chúng ta có thể kết luận: Công trình đào tạo là công trình của Ba Ngôi: “Đồng hành với một tín hữu, huấn luyện một tín hữu là một hành động chỉ có Chúa Ba Ngôi mới thực hiện… Chúa Cha giáo dục, Chúa Con huấn luyện và Chúa Thánh Thần đồng hành”[5]. Công việc này được thực hiện trong, qua và nhờ Giáo Hội.
Thay lời kết
Nhà văn Nguyên Ngọc cảnh báo về tình trạng khủng hoảng giáo dục ở Việt Nam: “Giáo dục của chúng ta hiện nay đang có vấn đề trong cả hệ thống của nó, hầu như tất cả các lãnh vực của nó đều có vấn đề, cái hỏng của nó có tính chất hệ thống chứ không phải cục bộ”. Ông đề cập tới “thứ lỗi hệ thống”, là một thứ lỗi nền tảng nhất, nguy hại nhất. Nguyên nhân cuộc khủng hoảng giáo dục ở Nước ta là do “triết lý giáo dục” vừa lạc hậu, vừa mất định hướng[6]. Phải chăng việc giáo dục con người hôm nay bị giảm thiểu vào việc nhồi nhét kiến thức và kỷ năng mà ít chú trọng tới việc huấn luyện học sinh, trước hết, trở thành những con người tốt, công dân tốt về các phương diện trí - đức - dục, vừa có chuyên môn cao?
Trong công việc đào tạo linh mục của Giáo Hội, chúng ta cũng được cảnh báo về hiện tượng “nín thở qua sông” của ứng sinh, hay là mô hình đào tào linh mục thiếu tính thống nhất và tính toàn vẹn đã đưa công cuộc đào tạo rơi vào tình trạng một chiều duy tri thức, duy tu đức, duy luân lý, hay duy kỹ năng và duy hiệu quả… Cần phải có những nổ lực canh tân kịp thời để chương trình huấn luyện phải giúp các ứng sinh thực sự được biến đổi toàn vẹn, trở thành những con người tốt, kitô hữu trưởng thành và những linh mục thánh thiện cho sứ vụ loan báo Tin Mừng trong thế giới hôm nay.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Thái Hợp, Tôn Giáo Giáo Dục. Một cách tiếp cận, CLB Phaolô Nguyễn Văn Bình 2009, 11-24.
2. A. Cencini, I Sentimenti del Figlio. Il cammino formativo nella vocazione presbiterale e consolata, EDH, Bologna 2005.
3. Fontificia Opera per le Vocazioni Ecclesiastiche, Nuove vocazione per una nuova Europa. Documento finale del Congresso sulle Vocazioni al Sacerdozio e alla vita Consecrata in Europa, Roma 5-10 Maggio 1997.
4. Giovanni Paolo II, Apostolic Esortazione Apostolica Vita Concrecrata, March 25, 1996.
5. Giovanni Paolo II, Apostolic Esortazione Apostolica Pastores dabo vobis, December 25, 1992.
Footnote
[1] Vita consecreta, sđd.
[2] Pastores dabo vobis, số 3 tt.
[3] Vita consecreta, sđd.
[4] Fontificia Opera per le Vocazioni Ecclesiastiche, Nuove vocazione per una nuova Europa. Documento finale del Congresso sulle Vocazioni al Sacerdozio e alla vita Consecrata in Europa, Roma 5-10 Maggio 1997, n. 18b.
[5] A. Cencini, I Sentimenti del Figlio. Il cammino formativo nella vocazione presbiterale e consolata, EDH, Bologna 2005, 34.
[6] Cf. Nguyễn Thái Hợp, Tôn Giáo Giáo Dục. Một cách tiếp cận, CLB Phaolô Nguyễn Văn Bình 2009, 11-24.
No comments:
Post a Comment