Thursday 30 November 2017

Mọi người đều được kêu gọi nên thánh


Theo Lumen Gentium, Chương V

Cách đây ít ngày, chúng ta đã mừng kỷ niệm 50 năm kết thúc Công đồng Vatican II và cử hành Năm thánh Lòng Thương xót. Chúng ta phải nói rằng sự liên kết giữa chủ đề lòng thương xót và Công đồng Vatican II không hề là tùy hứng và thứ yếu chút nào.
Trong diễn văn khai mạc ngày 11 tháng 10 năm 1962 thánh Giáo hoàng Gioan XXIII đã chỉ cho thấy lòng thương xót như là lối tiếp cận mới trong cung cách của Công đồng, ngài viết:
“Giáo hội luôn chống lại những sai lầm qua các thời đại. Giáo hội thường lên án chúng với thái độ rất nghiêm khắc. Tuy nhiên bây giờ, Hiền thê của Chúa Kitô ưa thích sử dụng liều thuốc của lòng thương xót hơn là sự nghiêm khắc.”[1]
Trong một nghĩa nào đó, một nửa thế kỷ sau, Năm thánh Lòng Thương xót cử hành sự trung tín của Giáo hội đối với lời hứa này.
Đôi khi, chúng ta tự hỏi nếu nhấn mạnh quá về lòng thương xót Chúa, chúng ta có nguy cơ lãng quên phẩm tính quan trọng khác của Thiên Chúa là công bình chăng? Nhưng công bình của Thiên Chúa không chỉ không trái ngược với lòng thương xót mà còn làm nổi bật lòng thương xót. Thiên Chúa là tình yêu và thương xót, bởi thế, vì lý do này tự nơi mình Người là công chính – nghĩa là Thiên Chúa thực sự mạc khải Người là ai – khi Người có lòng thương xót. Nhiều thế kỷ trước Luther, thánh Augustinô đã giải thích rất rõ ý nghĩa của cụm từ “sự công chính của Thiên Chúa” theo cách giải thích của thánh Phaolô:
“Sự công chính của Thiên Chúa là điều mà nhờ đó chúng ta được trở nên công chính, một cách chính xác đó là “ơn cứu độ của Chúa” (salus Domini) (Tv 3,9), có nghĩa là nhờ sự cứu độ của Người làm cho chúng ta được cứu độ.”[2]
Điều này không làm vơi cạn tất cả ý nghĩa của từ ngữ về “sự công bình của Thiên Chúa”, nhưng chắc chắn đây là ý nghĩa chính yếu của nó. Một ngày kia, sẽ có một dạng thức khác của sự công bình, khi mà Thiên Chúa “sẽ xử với mỗi người theo công việc mình làm” (Rm 2,5-10), nhưng đây không phải là điều mà thánh Phaolô đề cập khi ngài nói: “Nay sự công bình của Thiên Chúa được tỏ lộ” (Rm 3,21). Sự công bình này là một biến cố hiện tại, còn sự công bình kia là biến cố tương lai. Trong một đoạn văn khác, thánh Tông Đồ giải thích sự công bình của Thiên Chúa như sau:
“Nhưng Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ chúng ta, đã biểu lộ lòng nhân hậu và lòng yêu thương của Người đối với nhân loại. Không phải vì tự sức mình chúng ta đã làm nên những việc công chính, nhưng vì Người thương xót” (Tt 3, 4-5).
1- Các ngươi hãy nên thánh vì Ta, Thiên Chúa các ngươi là thánh
Chủ đề của suy niệm thứ hai này là chương V trong Lumen Gentium với tựa đề: “Mọi người đều được mời gọi nên thánh.” Chúng ta có thể nói rằng trong lịch sử Công đồng, chương này được lưu ý chỉ vì vấn đề biên soạn. Nhiều nghị phụ Công đồng là những thành viên đến từ các dòng tu nên họ mạnh mẽ yêu cầu cần phải trình bày một phần riêng về sự hiện diện các dòng tu trong Giáo hội như đã trình bày cho giáo dân. Từ đó, phần dự định trình bày trong một chương duy nhất liên quan đến sự thánh thiện của tất cả mọi thành phần của Giáo hội, được chia thành hai chương, trong đó chương thứ hai (chương VI của LG) được dành riêng biệt cho các dòng tu.[3]
Ơn gọi nên thánh được định nghĩa ngay từ đầu với những lời này:
“Tất cả mọi người trong Giáo hội – hoặc thuộc hàng giáo phẩm hoặc được hàng giáo phẩm dìu dắt – đều được kêu gọi nên thánh, như lời Thánh Tông Đồ dạy: “Vì Thiên Chúa muốn anh em được thánh hóa” (1Tx 4,3; x. Ep 1,4).[4]
Lời kêu gọi nên thánh này là cần thiết nhất và là bổn phận cấp bách nhất của Công đồng. Không có nó, tất cả những bổn phận khác sẽ không thể và không có lợi ích gì. Tuy nhiên, đây là một bổn phận có nguy cơ dễ dàng bị sao lãng nhất bởi vì chỉ có Thiên Chúa và lương tâm con người đòi hỏi và mời gọi chúng ta đạt tới điều đó, chứ không phải là những thôi thúc hay những quan tâm đến từ bất kỳ nhóm nào trong Giáo hội. Đôi lúc, chúng ta cảm tưởng rằng trong một số nơi và một số cộng đoàn tu trì sau Công đồng, người ta dấn thân nhiều trong việc “phong nhiều vị thánh” hơn là “làm cho mình nên thánh”, nghĩa là, có nhiều cố gắng để đưa lên bàn thờ tôn kính các vị sáng lập hay những anh chị em của mình hơn là bắt chước các mẫu gương và nhân đức của họ.
Việc đầu tiên cần phải làm khi chúng ta nói về sự thánh thiện là giải phóng từ ngữ này khỏi sự rụt rè và khỏi sự sợ hãi mà nó tạo nên, bởi vì chúng ta suy nghĩ sai về nó. Sự thánh thiện có thể bao hàm một hiện tượng và những chứng thực phi thường, nhưng nó không được đồng hóa với những điều này. Nếu tất cả mọi người được mời gọi tới sự thánh thiện, bởi vì, hiểu một cách chính xác, nó nằm trong khả năng của mọi người, nó làm nên sự bình thường của đời sống Kitô hữu. Các thánh giống như những bông hoa: các thánh được đưa lên bàn thờ chỉ là một số ít so với đông đảo các thánh. Có biết bao người trong số họ như những bông hoa đã trổ bông và héo tàn một cách âm thầm sau khi đã tỏa hương sắc cách thầm lặng xung quanh chúng ta! Có biết bao nhiêu bông hoa ẩn dấu như thế đã nở hoa và tiếp tục khoe sắc trong vườn hoa Giáo hội!
Lý do nền tảng của sự thánh thiện thì rõ ràng ngay từ đầu, vì Thiên Chúa là Đấng thánh: “Anh em hãy nên thánh bởi vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa các ngươi là Đấng thánh (Lv 19,2). Trong Kinh thánh, sự thánh thiện là bản tóm tắt tất cả những thuộc tính của Thiên Chúa. Tiên tri Isaia gọi Thiên Chúa là “Đấng Thánh của Israel”, nghĩa là Đấng mà Israel đã nhận biết như là Đấng Thánh. “Thánh, Thánh, Thánh”, “Qadosh, qadosh, qadosh” là tiếng kêu kèm với sự bày tỏ của Thiên Chúa tại thời khắc Isaia được Chúa gọi (Is 6,3). Đức Maria suy niệm cách trung thành ý tưởng này về Thiên Chúa trong các sách tiên tri và các Thánh Vịnh khi ngài ca ngợi trong kinh Magnificat, “vì danh Ngài là thánh” (Lc 1,48).
Liên quan đến ý nghĩa của ý tưởng về sự thánh thiện, từ ngữ thuộc Kinh thánh Qadosh gợi lên ý tưởng về sự tách biệt và khác biệt. Thiên Chúa là thánh bởi vì Người hoàn toàn khác biệt so với những gì mà con người có thể nghĩ, nói hay làm. Người là Đấng Tuyệt Đối trong nghĩa từ ngữ về ab-solutus, tách biệt khỏi mọi thứ còn lại và ở một bên. Người là Đấng Siêu Việt theo nghĩa Người vượt trên mọi phạm trù của chúng ta. Tất cả những điều này mang ý nghĩa luân lý, trước khi mang ý nghĩa siêu hình, bởi vì nó liên quan đến hành động của Thiên Chúa và không phải liên quan đến hữu thể của Người. Trong Kinh thánh, những gì được gọi là thánh trước hết đó là những phán quyết của Thiên Chúa, những công trình và đời sống của Người.[5]
Tuy nhiên, sự thánh thiện không theo quan niệm tiêu cực, khi nó chỉ sự tách biệt, sự vắng mặt của sự dữ và sự hỗn hợp trong Thiên Chúa. Sự thánh thiện là một quan niệm hết sức tích cực. Nó có nghĩa là một “sự viên mãn trong sạch.” Trong chúng ta, “sự viên mãn” không bao giờ tương hợp hoàn toàn với “sự trong sạch.” Điều này đối nghịch điều kia. Sự trong sạch của chúng ta thì luôn luôn có được nhờ việc thanh tẩy và xóa bỏ tội lỗi trong hành động chúng ta (x. Is 1,16). Nhưng đây không phải là trường hợp của Thiên Chúa. Sự trong sạch và viên mãn đồng hiện hữu, chúng cùng nhau làm nên tính đơn giản tuyệt đối của Thiên Chúa. Kinh thánh diễn tả ý tưởng này về sự thánh thiện tới sự hoàn hảo khi nói rằng: “Không có gì thêm vào hay bớt đi” từ Thiên Chúa (Kn 42,21). Như thế, vì Người là đỉnh cao của sự trong sạch, không gì có thể được lấy đi từ Người, và như thế vì Người là đỉnh cao của sự viên mãn, không gì có thể thêm vào cho Người.
Khi chúng ta cố gắng tìm hiểu làm thế nào con người đi vào trong môi trường thánh thiện của Thiên Chúa và việc nên thánh có nghĩa là gì? Trong Cựu ước, chúng ta thấy ngay lập tức xuất hiện phần lớn những ý tưởng thánh thiện theo ý nghĩa phụng tự. Trung gian sự thánh thiện của Thiên Chúa là những đối tượng, những nơi chốn, nghi lễ và những điều luật. Toàn bộ nội dung sách Xuất Hành và Lêvi mang tựa đề “bộ luật thánh” hay “luật của sự thánh thiện.” Sự thánh thiện nằm trong một bộ luật. Sự thánh thiện này bị ô uế nếu ai đó tiến gần bàn thờ với một sự bất toàn về thể lý hay sau khi đã đụng chạm một con vật ô uế:
“Vì thế, các ngươi phải nên thánh và hãy nên thánh… Các ngươi không được làm cho mình ra ô uế vì mọi loài nhỏ bò trên đất” (Lv 11,44; x. Lv 21,23).
Chúng ta nghe những tiếng gọi khác nhau giữa các tiên tri và trong Thánh Vịnh: “Ai được lên núi Chúa? Ai được ở trong đền thánh của Người?” hay “Ai trong chúng ta ở gần được lửa thiêu?” (Is 33,22). Những câu hỏi này được trả lời trong những hạn từ hoàn toàn mang tính luân lý: “Đó là kẻ tay sạch lòng thanh” (Tv 24,3-4) và “kẻ theo đường chính trực, hằng ăn nói thẳng ngay” (Is 33,15). Tuy nhiên, những tiếng nói cao thượng này vẫn còn bị giới hạn. Ngay cả thời Chúa Giêsu, ý tưởng này vẫn còn thịnh hành đối với những người Pharisêu và ở Qumran khi họ cho rằng sự thánh thiện, sự công chính hệ tại trong sự thanh sạch thuộc phụng tự và việc tuân giữ một số những điều luật, đặc biệt liên quan đến ngày Sabát – ngay cả khi trong lý thuyết, không ai quên rằng điều răn thứ nhất, quan trọng nhất là yêu mến Thiên Chúa và người thân cận.
2- Sự mới mẻ của Chúa Kitô
Bây giờ chuyển sang Tân ước, chúng ta thấy rằng định nghĩa về “dân tộc thánh thiện” từ xa xưa mở rộng cho các dân Kitô giáo. Theo thánh Phaolô, người được Rửa tội là “các thánh nhờ ơn gọi” hay được “gọi trở thành các thánh” (Rm 1,7; 1 Cr 1,2). Ngài thường nói về những người được Rửa tội với từ “các thánh.” Những người tin được chọn “trong Người” để trở thành “thánh thiện và hoàn hảo trước mặt Người” (Ep 1,4). Nhưng dưới dáng vẻ bên ngoài, bản chất của thuật ngữ, chúng ta thấy có hai sự thay đổi sâu xa. Sự thánh thiện không còn là một vấn đề pháp lý hay phụng tự nữa nhưng là vấn đề luân lý, càng không phải là vấn đề hữu thể. Nó không ở nơi những bàn tay, nhưng ở trong trái tim; nó không được xác định bởi những hành vi bên ngoài nhưng thuộc nội tâm và được tóm tắt như là bác ái: “Không phải những gì từ ngoài vào miệng làm cho ô uế con người, nhưng những gì từ miệng phát ra, điều đó làm ô uế con người” (Mt 15,11).
Những trung gian về sự thánh thiện của Thiên Chúa không còn là những nơi chốn (đền thờ Giêrusalem hay núi Gerizim), những nghi lễ, những vật thể, hay lề luật nhưng là một Con người, Đức Giêsu Kitô. Trở nên thánh như thế không còn hệ tại nhiều trong việc tách biệt khỏi điều này hay điều kia nhưng trong việc kết hợp với Chúa Giêsu Kitô. Trong Chúa Giêsu Kitô, sự thánh thiện đích thực của Thiên Chúa ban cho chúng ta qua một con người chứ không phải qua một sự hồi tưởng xa xôi. Hai lần trong Tin mừng, lời tuyên xưng này được dành cho Chúa Giêsu: “Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,69; Lc 4,34). Kinh Thánh gọi Đức Kitô cách đơn giản là “Đấng Thánh” (Kh 3,7), và phụng vụ dội lại điều này trong khi tuyên xưng nơi kinh “Gloria”, “Tu solus Sanctus”, “chỉ có Ngài là Đấng thánh.”
Chúng ta tiếp cận và đón nhận sự thánh thiện của Đức Kitô được thông ban cho chúng ta qua hai cách: qua sự thủ đắc (appropriation) và qua sự noi gương bắt chước (imitation). Trong hai cách này, cách thứ nhất là quan trọng nhất bởi vì chúng ta trở nên thánh nhờ đức tin và nhờ các bí tích. Vượt trên tất cả, sự thánh thiện là một quà tặng, một ân sủng và là công trình của toàn thể Ba Ngôi. Vì thế, theo lời của thánh Tông Đồ, chúng ta thuộc về Đức Kitô hơn là thuộc về chính mình (x. 1 Cr 6,19-20); một cách tương tự, ta có thể nói sự thánh thiện của Chúa Kitô thuộc về chúng ta hơn là sự thánh thiện của chúng ta. Nhà thần học Chính Thống Nicholas Cabasilas nói rằng: “Những gì của Đức Kitô là của chúng ta hơn những gì đến từ chính chúng ta.”[6] Đây là cú nhảy qua rào cản hay cú nhảy của sự can đảm mà chúng ta phải thực hiện trong đời sống Kitô hữu. Chúng ta thường khám phá điều này không từ giai đoạn đầu nhưng ở phần cuối của hành trình tu đức, không ở trong giai đoạn đệ tử nhưng ở giai đoạn sau, khi mọi con đường đã được cố gắng và chúng ta thấy rằng chúng không đưa chúng ta đi xa hơn.
Thánh Phaolô dạy chúng ta làm sao để thực hiện “cú nhảy của sự can đảm này” khi tuyên bố một cách long trọng rằng, ngài không muốn nhìn nhận sự công chính hay sự thánh thiện của ngài là nhờ vào việc tuân giữ lề luật, nhưng chỉ nhờ cách duy nhất là đức tin vào Đức Kitô (x. Pl 3,5-10). Thánh Phaolô nói rằng: “Chúa Kitô đã trở thành “sự công chính, sự thánh hóa và ơn cứu chuộc vì chúng ta” (1Cr 1,30). “Vì chúng ta”: như thế chúng ta có thể cầu xin sự thánh thiện của Người làm thành sự thánh thiện của chúng ta với mọi hiệu quả của nó. Thánh Bernard cũng làm bước nhảy vọt này khi ngài kêu lên: “Tôi thấy thiếu thốn bao nhiêu thì tôi bù đắp bấy nhiêu” (một cách văn chương: tôi thủ đắc!) cho mình từ trái tim của Chúa.”[7] Để có sự thánh thiện của Đức Kitô thì “phải chiếm lấy Nước Trời bằng sức mạnh” (x. Mt 11,12)! Đây là một bước can đảm mà chúng ta phải thường xuyên lặp lại trong đời sống chúng ta, đặc biệt là tại giờ phút hiệp lễ trong thánh lễ.
Để nói rằng chúng ta tham dự vào sự thánh thiện của Chúa Kitô thì giống như nói rằng chúng ta tham dự vào Chúa Thánh Thần đến từ Người. Đối với thánh Phaolô, để trở nên hay để sống “trong Chúa Kitô Giêsu” có nghĩa trở nên hay sống “trong Chúa Thánh Thần.” Đến lượt mình, thánh Gioan viết: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được rằng chúng ta ở lại trong Người và Người ở lại trong chúng ta: đó là Người đã ban Thần Khí của Người cho chúng ta” (1Ga 4,13). Nhờ Thánh Thần, Chúa Kitô ở trong chúng ta và chúng ta ở trong Chúa Kitô.
Như thế, chính Chúa Thánh Thần thánh hóa chúng ta. Không phải Chúa Thánh Thần một cách chung chung, nhưng là Chúa Thánh Thần, Đấng ở trong Chúa Giêsu Nazareth, Đấng đã thánh hóa nhân tính của Người, Đấng đã ở trong Người như một bình thạch bạch ngọc và Đấng được ban cho Giáo hội nhờ Chúa Giêsu từ thập giá và trong Lễ Ngũ Tuần. Như thế, sự thánh thiện ở trong chúng ta không là sự thánh thiện thứ hai hay là sự thánh thiện khác nhưng chính là sự thánh thiện của chính Chúa Kitô. Chúng ta thực sự “được thánh hóa trong Chúa Kitô” (1Cr 1,2). Như trong bí tích Rửa tội, thân xác của con người được dìm và được tẩy rửa trong nước, cũng vậy, ta có thể nói, tâm hồn của người đó được tắm rửa trong sự thánh thiện của Đức Kitô: “Anh em đã được tẩy rửa, được thánh hóa, được nên công chính nhờ danh Chúa Giêsu Kitô và nhờ Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta!” (1 Cr 6,11).
Bên cạnh phương thế nền tảng này của đức tin và của các bí tích, sự noi gương bắt chước cũng cần phải có chỗ cho các hành động và cố gắng của chúng ta. Không phải là phương thế tách biệt và khác biệt nhưng là phương thế duy nhất thích hợp để bày tỏ đức tin và chuyển tải nó trong hành động. Đối lập “đức tin và hành động” là một vấn đề sai lầm, được minh chứng nhờ những tranh luận lịch sử. Những hành động tốt mà không có đức tin thì không phải là “những hành động tốt” và đức tin mà không có hành động tốt thì không phải là đức tin chân thật. Dĩ nhiên, “hành động tốt” ban đầu không hiểu như đã hiểu vào thời của Luther, như ân xá, hành hương và những thực hành đạo đức, nhưng đúng hơn đó là việc tuân giữ các giới răn, đặc biệt giới răn yêu thương tha nhân. Chúa Giêsu nói rằng trong ngày phán xét chung những người bị loại khỏi Nước Trời vì họ đã không cho người trần truồng mặc và không cho người đói ăn. Như vậy, người ta không được cứu độ nhờ những hành động tốt, nhưng người ta không được cứu độ nếu không có những hành động tốt. Điều này tóm tắt giáo huấn của Công đồng Trentô.
Tiến trình này xảy ra tương tự như trong đời sống thể lý. Một em bé tuyệt đối không thể làm gì để được thụ thai trong lòng mẹ nó; bé cần tình yêu của cha mẹ (ít là như thế cho đến bây giờ). Tuy nhiên, khi đã được sinh ra, nó cần làm cho những lá phổi hoạt động để thở, bú sữa; tóm lại nó phải tự làm lấy, nếu không nó sẽ chết. Câu nói của thánh Giacôbê: “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,26) được hiểu theo nghĩa này, nghĩa là khi đức tin không hành động, đức tin chết.
Trong Tân ước, có hai động từ thường thay nhau để nói về sự thánh thiện, một ở trong thể chỉ định và một ở trong thể mệnh lệnh: “Anh em là thánh” và “hãy nên thánh.” Các Kitô hữu đã được thánh hóa và đang trở nên thánh. Khi thánh Phaolô viết: “Đây là ý muốn của Thiên Chúa là anh em phải nên thánh” (1Tx 4,3), rõ ràng thánh nhân hiểu sự thánh thiện này chính là kết quả của sự cố gắng cá nhân. Ngài còn nói thêm: “Tức là xa lánh gian dâm, mỗi người hãy biết giữ cho thân xác mình trong thánh thiện và trong sự kính trọng” (x. 1Tx 4,3-9).
Bản văn Lumen Gentium làm nổi bật cách rõ ràng hai khía cạnh này, khía cạnh khách quan và khía cạnh chủ quan của sự thánh thiện, một cách độc lập, dựa trên đức tin và những việc làm. Bản văn nói:
“Ðược Thiên Chúa kêu gọi và được công chính hóa trong Chúa Giêsu, không phải vì công lao riêng, nhưng vì ý định và ân phúc của Ngài, các môn đệ Chúa Kitô, nhờ lãnh nhận phép Thánh Tẩy, bí tích đức tin, đã thực sự trở nên con cái Thiên Chúa và được thông phần vào bản tính Ngài, và do đó, thực sự đã trở nên thánh.”[8]
Vì thế, theo Luther, thời Trung Cổ đã bị lạc hướng trong việc nhấn mạnh phương diện Chúa Kitô như là gương mẫu, ông tập trung trên một phương diện khác khi khẳng định rằng Chúa Kitô như là quà tặng và quà tặng này đòi hỏi phải có đức tin để đón nhận Người.[9] Ngày hôm nay, tất cả chúng ta đều đồng ý không đặt hai phương diện này đối nghịch với nhau nhưng là giữ cho chúng được hiệp nhất. Chúa Kitô trước hết là một món quà để đón nhận qua đức tin, nhưng Người cũng là mẫu gương cho chúng ta noi theo trong cuộc sống. Ông ghi lòng tạc dạ ý tưởng này trong Tin mừng: “Thầy ban cho anh em một mẫu gương (điều răn mới), là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,15); “Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29).
3- Những thánh nhân hay những kẻ thất bại

Đây là lý tưởng mới về sự thánh thiện trong Tân ước. Một điểm không thay đổi và được đào sâu từ giai đoạn Cựu ước sang Tân ước, đó là lý do nền tảng của ơn gọi nên thánh. “Lý do căn bản” đòi hỏi nên thánh là bởi vì Thiên Chúa là thánh: “Hãy nên thánh theo hình ảnh của Đấng Thánh đã kêu gọi anh em.” Các môn đệ của Đức Kitô phải yêu mến kẻ thù của họ “để anh em có thể trở thành con cái của Cha anh em là Đấng ngự trên trời; vì Người cho mưa xuống trên người công chính và trên cả người tội lỗi” (Mt 5,45).

Sự thánh thiện như thế không phải là một sự áp đặt, hay một ách nặng nề đặt trên vai chúng ta, nhưng là một đặc ân, một quà tặng, một danh dự cao thượng. Nên thánh đương nhiên là một sự đòi buộc, nhưng nó đến từ phẩm giá chúng ta như là con cái Thiên Chúa. Người Pháp nói về “sự đòi buộc cao thượng” có thể áp dụng ở đây trong một ý nghĩa đầy đủ nhất.

Nên thánh là một đòi hỏi tự bản tính thụ tạo của con người. Điều này không phải liên quan đến điều mà triết học gọi là các phụ thể nhưng liên quan đến bản thể con người. Mọi người phải nên thánh để hoàn tất căn tính sâu thẳm của họ, đó là trở nên “hình ảnh và giống Thiên Chúa.” Theo Kinh thánh, căn bản con người không phải là điều mà nó được xác định để trở nên từ sự sinh ra (physis - thể lý) như đối với triết học Hy Lạp, và vì thế là “sinh vật có lý trí”, nhưng là điều mà con người được mời gọi trở thành, nhờ việc sử dụng ý chí tự do, trong sự vâng phục Thiên Chúa. Đây không phải là vấn đề thuộc bản tính, nhưng thuộc ơn gọi.

Như vậy, nếu chúng ta được mời gọi trở thành những vị thánh, nếu chúng ta “là những vị thánh nhờ ơn gọi”, thì rõ ràng chúng ta sẽ là những người thực sự thành công trong mức độ mà chúng ta trở thành những thánh nhân. Nếu không chúng ta sẽ là những người thất bại. Sự trái nghịch với thánh nhân không phải là tội nhân, nhưng là kẻ thất bại! Con người có thể thất bại trong cuộc sống theo nhiều cách thế, nhưng đó là những sự thất bại tương đối mà nó không làm hại đến bản chất; tuy nhiên, có thể có một sự thất bại tận căn, trong điều mà một người là, chứ không chỉ trong điều mà một người làm. Mẹ Têrêxa đã có lý khi trả lời cho một nhà báo hỏi mẹ cách thẳng thắn rằng mẹ cảm thấy điều gì khi mọi người tuyên xưng như là một vị thánh, “sự thánh thiện không phải là một điều xa xỉ, nó là một sự cần thiết.”

Triết gia Blaise Pascal đã hình thành nguyên lý của ba cấp bậc về sự vĩ đại: cấp bậc của thân xác và của vật chất, cấp bậc của sự thông minh và cấp bậc của sự thánh thiện. Một khoảng cách gần như vời vợi để phân biệt cấp bậc của sự thông minh với cấp bậc của thân xác, nhưng có khoảng cách “xa vời vợi hơn” để phân biệt cấp bậc của sự thánh thiện với cấp bậc của sự thông minh. Những bậc thiên tài không cần sự vĩ đại về cấp bậc vật chất, nó không thêm không bớt điều gì cho họ. Cũng thế, các thánh không cần bậc vĩ đại của sự thông minh bởi vì sự vĩ đại của họ được tìm thấy ở một cấp bậc khác. “Họ được Thiên Chúa và các thiên thần nhìn nhận, mà không phải bởi những con người hay bởi những đầu óc tò mò, đối với họ, Thiên Chúa là đủ rồi.”[10]

Đây là nguyên tắc cho phép chúng ta đánh giá mọi sự và con người xung quanh chúng ta một cách đúng đắn. Hầu hết con người dừng lại ở cấp bậc thứ nhất và không có thắc mắc về sự hiện hữu của một cấp bậc cao hơn. Đó là những người sống cuộc đời này mà chỉ lo tích trữ những sự giàu có, chăm sóc sắc đẹp thể lý, hay tìm kiếm quyền lực cho mình. Những người khác tin rằng giá trị tối thượng và đỉnh cao của sự vĩ đại là cấp bậc thông minh. Họ tìm cách trở thành những người nổi tiếng trong lãnh vực văn chương, nghệ thuật, suy tư. Chỉ có một số ít biết rằng có một cấp bậc thứ ba của sự vĩ đại, đó là sự thánh thiện.

Đây là sự vĩ đại lớn hơn cả bởi vì nó là vĩnh cửu và trổi vượt trong cặp mắt Thiên Chúa, là sự đo lường đích thực của sự vĩ đại và bởi vì nó cũng là sự viên mãn của điều cao cả nhất trong con người, chính là sự tự do. Điều này không tùy thuộc vào việc chúng ta sinh ra mạnh khỏe hay yếu đuối, đẹp hay xấu, giàu hay nghèo, thông minh hay ít thông minh. Ngược lại, nó tùy thuộc vào việc chúng ta là trung thực hay giả dối, tốt hay xấu, thánh nhân hay tội nhân. Nhạc sỹ Charle – Francois Gounod, một thiên tài, có lý khi nói: “Một giọt của sự thánh thiện thì đáng trân trọng hơn một đại dương thiên tài.”

Liên quan đến sự thánh thiện, một tin vui là con người không buộc phải chọn chỉ một trong các cấp bậc vĩ đại trên đây. Họ có thể nên thánh trong mỗi cấp bậc. Đã có và đang có những vị thánh là những người nghèo và người giàu, người khỏe và người yếu, thiên tài và người ít học. Không ai bị ngăn cản khỏi sự vĩ đại của cấp bậc thứ ba.
4- Phục hồi con đường dẫn tới sự thánh thiện

Chúng ta theo đuổi sự thánh thiện giống như dân Chúa hành trình trong sa mạc. Đó cũng là một hành trình có những trạm dừng liên tiếp và những điểm phát xuất mới. Thỉnh thoảng có người dừng lại và căng lều; hoặc để lấy nước và thức ăn, hoặc đơn giản vì đi nhiều nên mệt. Nhưng một cách bất ngờ, có lệnh của Thiên Chúa truyền cho Môisê hãy dỡ các lều và hãy tiếp tục đi: “Cố lên, ra khỏi đây, ngươi và dân ngươi, hướng về đất mà Ta đã hứa (Xh 33,1).

Trong đời sống của Giáo hội, một lần nữa chúng ta lắng nghe cách đặc biệt những lời mời gọi tiếp tục lên đường khi chúng ta bước vào Mùa Vọng của năm phụng vụ và đặc biệt nhân dịp Năm thánh Lòng Thương xót Chúa vừa được khai mở bởi Đức Giáo Hoàng. Đối với mỗi người chúng ta, đây là thời gian dỡ lều và tiếp tục lên đường hướng tới sự thánh thiện và điều này xảy ra khi chúng ta nhận thấy trong mình lời mời gọi huyền nhiệm đến từ ân sủng. Lúc khởi đầu, có lẽ là thời điểm dừng chân. Chúng ta dừng lại trong dòng xoáy của những lo lắng riêng, lùi lại đằng sau thoát khỏi mọi sự để nhìn lại đời sống mình từ bên ngoài hay từ trên cao, sub specie aeternimatis như chúng ta thường nói. Lúc đó sẽ xuất hiện những câu hỏi: “Tôi là ai? Tôi muốn gì? Tôi đang làm gì trong đời sống?”

Dẫu là một tu sĩ, thánh Bênađô có một cuộc sống rất bận rộn: chủ trì các công nghị, hòa giải các giám mục và các thầy dòng, giảng dạy những chiến dịch. Ngài kể trong nhật ký của mình rằng thỉnh thoảng ngài dừng lại và khi đối thoại với chính mình, ngài tự hỏi: “Bênađô, người đến đây để làm gì?” (Bernarde, ad quid venisti?).[11] Vì điều gì mà ngươi đã bỏ thế gian và vào trong tu viện? Chúng ta có thể bắt chước ngài; hãy đọc tên của chúng ta lên và hãy tự hỏi: tại sao bạn là kitô hữu? Tại sao bạn là linh mục hay là tu sĩ? Sao bạn đang làm điều đó khi ở trong thế giới này?

Tân ước miêu tả một hình thức của hoán cải mà chúng ta có thể giải thích như là một sự hoán cải – giác ngộ hay một sự hoán cải khỏi sự thờ ơ. Trong sách Khải Huyền có bảy lá thư viết cho các thiên thần (nghĩa là, cho các giám mục, theo một số nhà chú giải) thuộc bảy Giáo hội tại Tiểu Á. Trong lá thư gửi thiên thần ở Êphêsô, Chúa Kitô bắt đầu với việc nhìn nhận một số điều tốt mà Giáo hội này đã làm: “Ta biết các việc ngươi làm, nỗi vất vả và lòng kiên nhẫn của ngươi… Ngươi có lòng kiên nhẫn và đã chịu khổ vì danh Ta mà không mệt mỏi” (Kh 2,2-3). Sau đó, Người đề cập những điều không làm hài lòng Người: “Nhưng ta trách ngươi. Ngươi đã để mất tình yêu thủa ban đầu!” (Kh 2,4) và ở điểm này tiếng kêu của Đấng Phục Sinh được vang lên như một tiếng kèn vang lên giữa những người đang ngủ, Metanoeson, hãy sám hối, hãy thay đổi mình, hãy tỉnh thức!

Đây là thư thứ nhất trong bảy lá thư. Lá thư cuối gửi cho thiên thần của Giáo hội ở Laodicea nghiêm khắc hơn: “Ta biết việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi!” (Kh 3,15). Hãy thay đổi và trở về với lòng nhiệt thành và sốt sắng: Zelêu oun kai metanoeson! (Kh 3,18 tt). Lá thư này, giống như lá thư khác, kết thúc với lời cảnh báo đầy bí nhiệm: “Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh” (Kh 3,22).

Thánh Augustinô cho chúng ta vài lời khuyên: “Hãy bắt đầu làm sống lại trong chính chúng ta khát khao nên thánh,” ngài viết: “Toàn bộ đời sống của một Kitô hữu tốt là một ước ao thánh thiện (nghĩa là một ước ao nên thánh): “Tota vita christiani boni, sanctum desiderium est.”[12] Chúa Giêsu nói: “Phúc cho ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được thỏa lòng” (Mt 5,6). Sự công chính theo Kinh thánh, như chúng ta biết, là sự thánh thiện. Vì thế, chúng ta hãy đặt cho mình câu hỏi để suy niệm trong thời gian này của Mùa Vọng: “Tôi có đói khát sự thánh thiện, hay tôi đang nộp mình cho sự tầm thường?”[13]



[1] www.vatican2voice.org/91docs/opening_speech.htm. All papal quotes for this book are from the Vatican website.
[2] Augustine, The Spirit and the Letter, 32, 56, PL 44, p. 237; Cf. Augustine: Later Works, trans. and intro. John Burnaby (Philadelphia: Westminster Press, 1955), p. 241.
[3] x. The History of Vatican II, Vol 4: Church as Communion: Third Period and Intersession: September 1964--September 1965, ed. Giuseppe Alberigo, English ed. Joseph A. Komonchak (Maryknoll, NY: Orbis Books, 2002), p. 46ff.
[4] Lumen Gentium, 39, in Vatican Council II: Constitutions, Decrees, Declarations, gen. ed. Austin Flannery (Northport, NY: Costello, 1996), p. 58.

[5] x. Đnl 32,4; Đnl 3,31; Kh 16,7.
[6] Nicholas Cabasilas, Life in Christ, 4, 15, trans. Carmino J. de Catanzaro (Crestwood, NY: St. Vladimir’s Seminary Press, 1974), pp. 138-139.
[7] William of St. Thierry, The First Life of Bernard, in St. Bernard of Clairvaux, trans. Geoffrey Webb and Adrian Walker (London: A. R. Mowbray, 1960), p. 37.
[8] Lumen Gentium, 40, p. 59.
[9] x. Søren Kierkegaard, The Diary of Søren Kierkegaard, X1, A 154, ed. Peter Rhode (New York: Kensington, 1960), pp. 168-170.
[10] Blaise Pascal, Pensées, 593, trans. A. J. Krailsheimer (New York: Penguin, 1995), p. 94.
[11] William of St. Thierry, The First Life of Bernard, in St. Bernard of Clairvaux, trans. Geoffrey Webb and Adrian Walker (London: A. R. Mowbray, 1960), p. 37.
[12] St. Augustine, “Homily 4,” 6, in Homilies on the First Epistle of John, trans. and notes Boniface Ramsey, The Works of Saint Augustine, Part 3, vol. 14 (Hyde Park, NY: New City Press, 2008), p. 69; Cf. also PL 35, p. 2008.
[13] Chuyển ngữ từ nguồn: http://www.zenit.org/en/articles/fr-cantalamessa-s-2nd-advent-sermon


No comments:

Post a Comment