Trước đây, Giáo Hội “sợ khoa học”, vì thế, cũng “sợ môn tâm lý học”. Thái độ đó đã thay đổi từ Công Đồng Vatican II khi Giáo Hội nhìn nhận vai trò của môn tâm lý học trong việc đào tạo linh mục: “Các tiêu chuẩn giáo dục Kitô giáo phải được nghiêm chỉnh tuân hành và bổ túc cách thích đáng nhờ việc sử dụng các phát minh mới mẻ của khoa tâm lý và khoa sư phạm lành mạnh.
Vì thế, một nền giáo dục khéo tổ chức cũng
phải nhằm huấn luyện cho các chủng sinh đạt được mức trưởng thành nhân bản cần
thiết” (OT 11). Đây là sự mới mẻ của Công Đồng. Khoa tâm lý học chân chính và khỏe
mạnh sẽ là một sự trợ giúp đáng kể cho công cuộc đào tạo linh mục trong Giáo Hội.
ĐỐI THOẠI
GIỮA ĐỨC TIN VÀ KHOA HỌC HÀNH VI
Trọng tâm
và đường hướng của Công Đồng Vatican II đã đưa tới những thay đổi đáng kể trong
cách thức chuẩn bị cho tác vụ của Giáo Hội[1] ở cả hai bình diện nội
dung đào tạo và phương pháp. Điều này đã, đang và sẽ có những tác động sâu sắc
trên chương trình đào tạo chủng sinh Công Giáo và chính cuộc sống của họ.
Một trong
những thách đố mà Công Đồng nêu ra, đó là hình thành việc đối thoại giữa niềm
tin tôn giáo và khoa học hành vi hiện đại ngõ hầu các Kitô hữu hiểu rõ hơn về
niềm tin của mình và đáp trả ân sủng một cách xác tín.[2] Đây là một chủ đề được
quan tâm trong giáo huấn của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II:
“Nền thần học
đương đại cần sự trợ giúp hỗ tương không chỉ từ triết học, nhưng còn từ khoa học,
nhất là khoa học nhân văn, như là một mấu chốt để trả lời câu hỏi: Con người là
gì? Vì thế, cần phải tổ chức các buổi hội thảo liên ngành với nhau trong các học
viện thần học.”[3]
Sắc lệnh
Đào Tạo Linh Mục bàn về thách đố này bằng cách nhấn mạnh rằng các chiều kích
trong chương trình đào tạo nên được thấm nhuần những đòi buộc mục vụ[4] và đề xuất sử dụng khoa học
hành vi để nâng cao tính hiệu quả của quá trình đào tạo.[5] Điều này mang lại những gợi
mở không những cho các nhà đào tạo linh mục tương lai trong các lĩnh vực mục vụ
ơn gọi, tiến trình thẩm định, đào tạo mục vụ và tu đức, nội dung các chương
trình thần học, mà còn cho việc canh tân liên lỉ hàng ngũ linh mục.
Hưởng ứng lời
kêu gọi của Công Đồng, rất nhiều văn bản đã ra đời để tận dụng các kiến thức
chuyên sâu của khoa tâm lý hiện đại vào công tác đào tạo linh mục. Các văn bản
của Hội Thánh sau Công Đồng trình bày những sự hiểu biết này, gồm có: Sacerdotalis Caelibatus (1967), Ratio Fundamentalis (1970), A Guide to Formation in Priestly Celibacy (1974),
và đặc biệt Pastores Dabo Vobis
(1992). Gần đây nhất, Thánh
Bộ Giáo Dục Công Giáo công bố nhiều tài liệu: “Định hướng cho việc sử dụng hiểu biết tâm lý
học trong việc tiếp nhận và trong việc đào luyện ứng sinh Linh mục” (30/10/2008)
được Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI phê chuẩn. Trong đó, Giáo Hội
nhìn nhận rằng những sự hiểu biết tâm lý học có thể là một phương tiện hữu hiệu
giúp cho việc trưởng thành nhân cách cũng như để phát triển những đức tính nhân
bản của ứng sinh linh mục cho một sứ vụ quan trọng như thế.
ĐÁNH GIÁ
CÁC ỨNG SINH
Tiến trình
phân định ơn gọi là một trong những khía cạnh của quá trình đào tạo phải được hỗ
trợ nhiều bởi việc áp dụng khoa tâm lý. Việc mục vụ ơn gọi linh mục của Giáo Hội
phải đối diện với hai sứ vụ chính: chọn lọc
và đào tạo. Trong Giáo Hội, đó đây vẫn thấy trong các phương pháp áp dụng
cho việc đào tạo, quá trình quan trọng giúp đánh giá và thẩm định ứng sinh lại
bị xem thường.
Mặc dù trên
thực tế, phần lớn các văn kiện quan trọng về đào tạo linh mục và tu sĩ trong 50
năm qua nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đánh giá kỹ càng các ứng sinh, dường
như vẫn còn có những dè dặt và nghi ngại trong một chừng mực nào đó. Thực tế
cho thấy luôn có những hình thức sàng lọc ứng sinh. Có sự thay đổi trong thời
gian qua khi Giáo Hội đưa vào giáo huấn quả quyết này: “Chọn lọc phải được
thực hiện đồng thời với khoa phân tích tâm lý hiện đại mà không bỏ qua quan điểm
của các yếu tố siêu nhiên và của sự phức tạp của các ảnh hưởng nhân linh lên mỗi
nhân vị.”[6] Nhờ đó khoa phân định ơn gọi
đã có tổ chức tốt hơn và kĩ lưỡng hơn.
Thông thường,
bề trên các chủng viện sẽ nại đến sự giúp đỡ của các chuyên gia chỉ khi ứng
sinh gặp khủng hoảng ơn gọi thật sự. Thường là trước khi chịu chức hoặc tuyên
khấn tạm. Vì thế, khả năng đưa ra một sự can thiệp cách hiệu quả trong những
tình huống như vậy là rất hạn chế.
Để giúp việc
đào tạo các ứng sinh có hiệu quả tốt, việc đánh giá kỹ càng các ứng sinh trước
khi nhận họ vào chủng viện là việc làm rất cần thiết và quan trọng. Điều này sẽ
“bảo vệ lợi ích của đương sự theo đuổi ơn gọi và của cả chủng viện, học viện và
các hội dòng mà người đó muốn thuộc về;”[7] và như vậy có thể sớm nhận
dạng các vấn đề nổi trội của ơn gọi trong quá trình đào tạo.
Trong Thư Mục Vụ về Đào Tạo Linh Mục (1979),
các giám mục địa phận New England (Hoa Kỳ) bàn về tầm quan trọng của việc phân
định ơn gọi. Các giám mục chỉ ra vai trò và làm rõ trách vụ của những người
liên quan đến sứ vụ đào tạo này. Các ngài đã chỉ ra 3 “giai đoạn” chính, nói
cách khác là các “cơ hội” đặc biệt cho việc phân định ơn gọi. Giai đoạn đầu
tiên đó là việc đồng hành ơn gọi và
quá trình thâu nhận cách thận trọng. Giai đoạn thứ hai là các đánh giá khác nhau về ứng sinh trong suốt
thời gian học ở chủng viện. Giai đoạn thứ ba là giai đoạn phân định đưa đến một khuôn mẫu trưởng thành trên đường nhân đức
sau quá trình hai năm đào tạo. Hai giai đoạn đầu thuộc “tòa ngoài” và các yếu tố
khách quan, giai đoạn thứ ba gắn liền với “tòa trong”. Cả tòa trong và tòa
ngoài đều có những chức năng cần thiết trong việc phận định chính xác ơn gọi trong
Giáo Hội.
ĐÀO TẠO CĂN
TÍNH LINH MỤC
Thông thường,
một ứng sinh sẽ đạt được một số kỹ năng và cảm thức về khả năng mục vụ sau thời
gian đào tạo ở chủng viện. Tuy nhiên, vượt trên cả điều này là sự đòi buộc của
một sứ vụ ưu việt hơn. Trên thực tế, chính điều này cấu thành mục tiêu chung của
toàn bộ quá trình đào tạo, đó là giúp mỗi chủng sinh thiết lập quan niệm chắc
chắn về căn tính linh mục, ngõ hầu sự hiện diện toàn bộ con người của chủng
sinh được bén rễ từ mối tương quan sâu sắc với Đức Kitô Linh mục và Mục tử.[8]
Các cuộc hội
thảo trên thế giới để chuẩn bị cho Thượng Hội Đồng Giám Mục 1990 đã làm nổi bật
nhu cầu xác minh căn tính và sứ vụ của linh mục trong thế giới đương đại. Các nghị
phụ nhận thấy đây là tiền đề quan trọng trong việc nỗ lực phác thảo một kế hoạch
tổng thể cho công cuộc đào tạo linh mục. Cảm thức này đã được phản ánh trong nội
dung của Tông Huấn Pastores Dabo Vobis.
Rõ ràng, việc
xác định căn tính và sứ vụ linh mục là công việc của khoa thần học, của cầu
nguyện và của phân định thiêng liêng. Tuy nhiên, đóng góp đặc thù của khoa học
hành vi là chuyển tải các tư tưởng triết học và tín lý thành các khái niệm thực nghiệm, nhờ sự can thiệp của y học
và kinh nghiệm, biến chúng thành các quá trình liên quan đến sự trưởng thành và
phát triển con người.
Khái niệm
“căn tính linh mục” được hiểu chính xác là gì? Nó không mấy liên hệ tới các
hành vi ứng xử bên ngoài, tới các địa vị hay tới thực tiễn. Nó cũng không có
nghĩa là đảm trách một vai trò nào đó trong Giáo Hội. Và cũng không phải là một
vấn đề của tinh thần tôn giáo.
Người linh
mục tìm thấy căn tính đích thực của mình khi toàn bộ đời sống trở nên đồng hình
đồng dạng với Đức Kitô. Điều này được củng cố và hun đúc nhờ sự siêng năng cầu
nguyện, lựa chọn mỗi ngày và hành động cụ thể. Sự đồng hình đồng dạng tâm hồn
và con tim theo khuôn mẫu Đức Kitô của các chủng sinh được biến đổi qua bí tích
Truyền Chức. Bí tích này làm cho người ứng sinh trở nên “hình ảnh trong suốt và
sống động của Đức Kitô Mục Tử”;[9] người “tìm gặp trọn vẹn sự
thật về căn tính của mình trong sự kiện mình tham dự một cách loại biệt vào Đức
Kitô và nối tiếp chính Đức Kitô.”[10]
Sự đồng
hình đồng dạng của một nhân vị với nhân tính của Đức Kitô chỉ có thể có khi
toàn bộ chương trình đào tạo chủng viện được kết cấu một cách hệ thống và có chủ
ý, nhằm cổ võ quá trình tiếp thu các giá trị “quy thiên” làm nền tảng cho toàn
bộ đời sống con người. Việc xem nhẹ vấn đề này sẽ khiến các linh mục tương lai dễ
bị tổn thương ơn gọi và có xu hướng chú tâm nhiều đến địa vị và bị phân mảng bởi
các vai trò.[11]
Một căn
tính linh mục sống động là kết quả tất yếu của quá trình tiệm tiến trưởng thành của
người chủng sinh, khi người đó từng bước hiến dâng cuộc đời cho Chúa, trong
tương quan ngày càng thân mật với Đức Kitô. Điều này trái ngược với căn tính “giả”
của những người chưa trưởng thành, hay căn tính bị ảnh hưởng bởi các thiếu hụt
trầm trọng.[12]
Đôi khi cái lốt đạo đức che đậy sự trống rỗng bên trong có thể được ngụy trang
bởi sự rập khuôn hình thức, hoạt động nhóm hay tham gia các vấn đề “không ảnh
hưởng gì đến hòa bình thế giới”. Thay vì phát triển căn tính linh mục đích thực
thì lại là một “vật tế thần” rỗng tuếch, giả hình và luôn luôn “khoác vào” một
cái áo choàng; căn tính mà đáng lẽ ra phải trở thành mối tương quan định hình từ
các giá trị nền tảng chắc chắn, và phải được thủ đắc một cách từ từ. Vì thế, cần
lột bỏ mọi hình thức của chủ nghĩa duy hình thức, đeo mặt nạ và lối đạo đức giả
trong đào tạo, để hướng đến việc đào tạo căn tính đích thực của ứng sinh linh mục.
ĐÀO TẠO ĐỘC
THÂN LINH MỤC
Tông Huấn Pastores
Dabo Vobis đưa ra một khẳng định rõ ràng về đường hướng của Giáo Hội là duy trì
bậc sống độc thân của linh mục.[13] Điều này trình bày đầy đủ
tư tưởng của các nghị phụ (xem luận đề số 11). Độc thân không chỉ đơn thuần là
một đòi buộc pháp lý, một điều kiện khách quan cho việc phong chức linh mục, mà
nó còn liên kết chặt chẽ với quá trình nên giống như Đức Kitô của mỗi một ứng
sinh.
Ở nhiều
vùng trên thế giới, ước nguyện sống độc thân vì Nước Trời thường không được cảm
thông và chia sẻ, một số nơi còn bị phản đối. Ngay cả trong Giáo Hội, vẫn còn
nhiều người cho rằng độc thân là không thể hay ít nhiều nó giới hạn sự phát triển
toàn vẹn con người. Chính trong bối cảnh xã hội và Giáo Hội như vậy, các chủng
viện phải nỗ lực để chuẩn bị một cách kĩ lưỡng cho các ứng sinh về đời sống độc
thân linh mục.
Mối tương
quan sâu sắc giữa cơ cấu bản thể nhân vị và hành vi ân sủng được tỏ lộ rõ nhất
qua việc đào tạo độc thân. Một đàng đời sống thiêng liêng căn bản lệ thuộc vào
ân sủng trong mầu nhiệm của nó, đàng khác ân sủng được diễn tả trong và qua cơ
cấu tinh thần.[14]
Ân sủng không phá hủy tự nhiên.
Khoa học
hành vi chỉ ra một vài nhân tố liên quan đến sự trưởng thành tình cảm, cũng như
ý nghĩa của nó đối với đời sống độc thân. Với bảng dẫn chứng khoa học vững chắc,
người ta chỉ ra mối tương tác chặt chẽ giữa mức độ trưởng thành tình cảm của một
người với khả năng tự do chọn sống đời sống độc thân của anh ta.
Nghiên cứu
của L.M. Rulla Sj, chẳng hạn[15], đã cho thấy rằng những
người hướng ngoại thường có xu hướng tâm dục mạnh (psychosexual). Điều này đòi buộc, nhờ ân sủng, một sự biến đổi nội
tâm trên cả hai chiều kích nhân bản và tu đức. Ngược lại, những người gặp thất
bại trong việc nhận dạng các nhu cầu vô thức, lạc điệu trong các giá trị ơn gọi,
sẽ trải qua rất nhiều căng thẳng về tâm lý tính dục. Nếu tình trạng này kéo
dài, những ứng sinh này có nguy cơ tổn thương ơn gọi và mất dần tính hiệu quả
trong mục vụ.
Cha Rulla vạch
rõ các ứng dụng của vấn đề này trên phạm vi đào tạo chủng viện và các hội dòng.[16] Cha cũng đưa ra khuôn mẫu
mới cho một nhà đào tạo, người có đủ trình độ chuyên môn để có thể giúp các ứng
sinh giải quyết các chướng ngại vô thức, từ đó ngăn ngừa một cách có hiệu quả một
bộ phận lớn ứng sinh cá nhân hóa ơn gọi của mình.[17]
ĐÁNH GIÁ VỀ
KHOA TÂM LÝ TRONG ĐÀO TẠO CHỦNG VIỆN
Đã hơn 50
năm kể từ ngày Công Đồng Vatican II kêu gọi sử dụng khôn ngoan khoa học
nhân văn và tâm lý như một phương tiện để nâng cao chất lượng đào tạo linh mục
và tu sĩ. Chúng ta đã có những đánh giá nào về cách thức mà khoa tâm lý học sử
dụng để đóng góp vào công việc đào tạo linh mục, tu sĩ trong suốt thời gian qua?
Trước hết, tầm
quan trọng của tâm lý học đã dần dần được các nhà đào tạo nhìn nhận. Mối tương
quan mật thiết giữa đào tạo tu đức và đào tạo nhân bản là một trong những
nguyên tắc chính được đề cập trong Tông Huấn Pastores Dabo Vobis. Tông Huấn bàn
luận một vài lĩnh vực cụ thể, ở đó, kiến thức của khoa tâm lý học đã giúp
ích nhiều cho Giáo Hội trong công tác đào tạo các linh mục tương lai.
Thứ hai, phải
thành thật thừa nhận rằng không phải mọi thứ được thực hiện với cái mác tâm lý
học đều có lợi cho việc đào tạo. Đã có những bằng chứng xác thực cho thấy đã xuất
hiện việc áp dụng khoa tâm lý học vào đào tạo linh mục và tu sĩ một cách bừa
bãi và thiếu tính phê bình trong thời gian gần đây.
Trong bài
nói chuyện với Tòa Thượng Phẩm Rôma (05/02/1987), Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô
II chỉ ra những mối nguy hại tới Đức Tin phát xuất từ việc tán thành thiếu phê
phán các định đề cơ bản của một vài ngành tâm lý hiện đại. Xét cho cùng, các
ngành này về cơ bản đi ngược lại với lập trường Kitô giáo về đời sống và vận mệnh
con người. Việc đào tạo linh mục thành công hay thất bại tùy thuộc vào các
nguyên tắc nhân chủng học mà nó căn cứ vào. Khi các nguyên tắc đó mơ hồ, thậm
chí tệ hơn, không khớp nhau, kết quả sẽ không là gì ngoài những thứ có xu hướng
liên hệ tới vài ngành nhân chủng khác. Chúng không thật sự hòa điệu với mục
tiêu của chương trình đào tạo chủng viện.
Các ngành
tâm lý nhân văn của C. Rogers và A. Maslow cung cấp một minh chứng bổ ích. Có
thể hữu ích trong vài bối cảnh nhất định, các ngành tâm lý này chưa thật thích
hợp là nền tảng của giáo dục Kitô giáo. Tuy nhiên, chúng đã đang và sẽ “vươn
mình” trở thành một cơ sở trong chương trình đào tạo linh mục và tu sĩ. Bất cứ
ngành nhân chủng nào xem việc tự hoàn thiện và tự khẳng định mình như là mục
tiêu trực tiếp của cuộc sống con người thì nó tương phản biện chứng với Phúc
Âm. Mà Phúc Âm đòi buộc các tín hữu rập đời sống mình theo các giá trị mạc
khải khách quan và cho một đời sống tự siêu việt cá vị.
Phải nhắc lại,
một vài chương trình đào tạo tu sĩ “hợp thời” đến độ có cảm tưởng chúng có nhiều
điểm tương đồng với các triết gia Thời Đại Mới (New Age) hơn là với công trình
cứu độ của Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc. Chính Người tác động vào nhân cách các
tín hữu một biến chuyển không ngừng nhờ quyền năng của ân sủng.
Thứ ba, nhiều
học viện đào tạo đã có tham vọng tận dụng thành quả của khoa học hành vi, trong
khi vẫn chưa có sự am hiểu tương xứng về độ phức tạp của sự đối thoại liên ngành
với nhau đích thực. Cũng như chưa nỗ lực đủ để chuẩn bị cho các nhà đào tạo các
kỹ năng cần thiết để tiến sâu và xa hơn trong lĩnh vực này.
Một kết cục
đáng buồn của điều này là xu hướng thay thế linh đạo Công Giáo bằng một vài dạng
tâm lý học “nổ”. Dễ bắt gặp một vài nhà đào tạo kém cỏi lại đảm trách các hoạt
động giáo dục mà thực tế các hoạt động này không hề có chỗ đứng trong dòng chảy
tâm lý học hiện đại. Kết quả méo mó này chẳng khác gì là một dạng chủ nghĩa
tương đối liên quan tới các giá trị nền tảng của ơn gọi linh mục.
Hơn nữa, một
sự “ngây ngô” về phương pháp thể hiện trong chủ nghĩa “chiết trung” một chiều là
đặc điểm chính của nhiều các chương trình đào tạo từ Vatican II. Khi thiếu đi một
nền nhân học nhất quán, một nền nhân học đưa ra được một tầm nhìn rõ ràng về
quá trình đào tạo và các yếu tố hợp thành, phần lớn các nhà đào tạo phải “cậy”
tới một sự chắp vá các phương thức tiếp cận và các kỹ năng – thường được rút ra
từ các ngành nhân học lung tung, thậm chí từ nền nhân học tương phản. Thông thường,
người ta trông chờ các nhà đào tạo làm việc theo “nhóm”, tuy nhiên, các nhóm
này dường như không có sự liên kết nội tại, vì thế dẫn tới thất bại trong việc
đưa ra lối tiếp cận toàn vẹn cho đào tạo. Điều này không thể biện minh bằng
thuyết đa nguyên, vì kết quả của nó đem lại cho ứng sinh là sự bối rối, mâu thuẫn
và giằng xé;[18]
và thay vì kích thích sự lớn lên ơn gọi của họ lại làm cho nó nên lụi tàn.
KẾT LUẬN
Ân sủng
không phá hủy tự nhiên. Cả hai hỗ trợ và nâng đỡ nhau. Khoa tâm lý học chân
chính sẽ là một sự trợ giúp hữu ích cho công tác đào tạo con người như giúp thụ
huấn sinh hiểu biết chính mình, nhận biết những yếu tố tự nhiên, các khuynh hướng,
nhu cầu, tình cảm, nhân cách, động lực thúc đẩy của họ... Vì thế, các chủng viện
và các dòng tu cần có sự mở rộng phạm vi và phương pháp huấn luyện nhằm giúp
tránh lối đào tạo “duy tu đức”. Đồng thời cũng phải biết ứng dụng khoa tâm lý học một
cách khôn ngoan, đúng chức năng và phạm vi của nó để tránh tình trạng “duy tâm
lý” trong đào tạo.
Linh mục
Phêrô Nguyễn Văn Hương
[1] T.
Howland Sanks, “Giáo dục cho Sứ vụ từ sau Vatican II”, trong Tạp Chí Thần Học 45 (1984), 481-500.
[2] Gaudium et Spes, số 23-44 (trong A.
Flannery OP, Công đồng Vatican II, Costello Publ. Co. Ny, 1975)
[3] Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, L’Osservatore
Rome (bản tiếng Anh), 20/09/1982, 3.
[4] Optatam Totius, số 4 & 19.
[5] Optatam Totius, số 11.
[6] Thánh
Bộ Giáo Dục Công Giáo, Guide to Formation
in Priestly Celibacy, 1974, số 38.
[7] L.
M. Rulla Sj, Nhân chủng học của Ơn gọi
Ki-tô giáo (Vol. I), tr. 376, Xc. tr. 376-380.
[8] Pastores Dabo Vobis, số 11.
[9] Pastores
Dabo Vobis, số 12.
[10]
Ibid.
[11]
L. M. Rulla, op. cit., 444-453.
[12]
P. Spllane MSC, “Formation in Apostolic Spirituality”, trong Review for Religious, Tháng 7 & 8, 494-504.
[13] Pastores Dabo Vobis, số 29.
[14] Guide to Formation in Priestly Celibacy,
op. cit., số 90.
[15]
L. M. Rulla SJ, Anthropology of the
Christian Vocation (Vol. II), 280-315.
[16]
L. M. Rulla SJ, Anthropology of the
Christian Vocation (Vol. I), 363-458.
[17]
Ibid, 388-395.
[18]
Ibid., 393.
No comments:
Post a Comment