Tuesday 28 November 2017

Đức Kitô, ánh sáng muôn dân

Một lối đọc Lumen Gentium theo hướng Kitô học


1- Một Giáo Hội học mang tính Kitô học

Chúng ta sẽ bắt đầu bằng việc dành ba suy niệm Mùa Vọng này cho Lumen Gentium, và sẽ giữ phần còn lại cho Mùa Chay sắp tới, nếu Chúa muốn. Ba chủ đề trong Hiến chế này mà tôi muốn suy tư đó là Giáo hội như là Thân thể và là hôn thê của Đức Kitô; Ơn gọi phổ quát tới sự thánh thiện và Giáo huấn về Đức Trinh nữ Maria.

Tôi có ý tưởng dành suy niệm đầu tiên này cho Giáo hội khi tôi tình cờ đọc lại phần đầu của Hiến chế trong bản văn bằng tiếng La Tinh viết rằng: “Lumen Gentium cum sit Christus – Chúa Kitô là ánh sáng của muôn dân.”[1] Phải nói rằng tôi rất ngạc nhiên vì chưa bao giờ tôi để ý đến kết luận rất ý nghĩa được chứa đựng ngay ở khởi đầu này.

Vì tựa đề của Hiến chế chỉ lấy phần đầu của câu (Lumen Gentium), tôi nghĩ rằng (và tôi không nghĩ rằng mình là người duy nhất) tựa đề “Ánh sáng muôn dân” được quy chiếu về Giáo hội trong khi đó như chúng ta thấy, nó thực sự quy chiếu về Đức Kitô.

Đây là tựa đề mà ông già Simêon đã chào đón hài nhi Messia khi Đức Maria và thánh Giuse đưa Người đến đền thờ: “Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel dân Người” (x. Lc 2,32).

Lời tuyên xưng đầu tiên này là chìa khóa để giải thích toàn bộ Giáo Hội học của Công đồng Vatican II. Đây là một nền Giáo Hội học mang chiều kích Kitô học, vì thế trước hết nó có giá trị tu đức và thần bí hơn là giá trị xã hội và cơ cấu. Thật là cần thiết đặt ở chỗ nhất chiều kích Kitô học của Giáo Hội học theo Công đồng ngay cả trong cái nhìn cho việc Tin mừng hóa được hiệu quả hơn. Thật vậy, con người không chấp nhận Đức Kitô vì tình yêu dành cho Giáo hội nhưng họ chấp nhận Giáo hội vì tình yêu dành cho Đức Kitô, dẫu là một Giáo hội bị biến dạng bởi tội lỗi của biết bao thành viên của mình.

Tôi phải nói ngay rằng, tôi không phải là người đầu tiên làm sáng tỏ về căn bản chiều kích Kitô học trong Giáo Hội học của Công đồng Vatican II. Khi đọc lại nhiều tác phẩm của Đức Hồng y Ratzinger về Giáo hội, tôi càng ý thức rằng, với sự kiên định, ngài đã cố gắng trình bày cách sống động chiều kích này của giáo huấn về Giáo hội trong Lumen Gentium. Ngài nhắc nhở chúng ta về ý nghĩa giáo huấn của câu đầu tiên này: “Lumen Gentium cum sit Christus - Chúa Kitô là ánh sáng muôn dân.” Chúng ta có thể tìm thấy trong những tác phẩm của ngài khẳng định sau đây: “Nếu bạn muốn hiểu Vatican II một cách chính xác, bạn phải bắt đầu lại với câu đầu tiên này.”[2]

Chúng ta cần phải lập tức làm rõ điều này để tránh mọi sự hiểu lầm: không ai dám phủ nhận cái nhìn tu đức và nội tâm này của Giáo hội. Tuy nhiên, như thường xảy ra trong những chuyện của con người, cái mới có nguy cơ che khuất cái cũ, điều hiện tại làm cho ta không còn nhìn thấy điều vĩnh cửu và điều cấp bách lấn át điều quan trọng. Đó là lý do tại sao ý niệm về sự hiệp thông Giáo hội và Dân Thiên Chúa thường chỉ được phát triển theo ý nghĩa chiều ngang và mang tính xã hội, nghĩa là theo cái nhìn có sự trái ngược giữa hiệp thông (koinonia) và phẩm trật, khi nhấn mạnh sự hiệp thông của các thành phần Giáo hội với từng người hơn là nhấn mạnh sự hiệp thông của tất cả các thành viên với Đức Kitô.

Có lẽ, một thời ý hướng đó được ưu tiên và mang lại lợi ích, như thánh Gioan Phaolô II đón nhận và đề cao nó trong Tông thư của ngài, Novo Millennio Ineunte.[3] Nhưng năm mươi năm sau khi kết thúc Công đồng, vẫn còn có ích để cố gắng tái lập sự cân bằng giữa cái nhìn này về Giáo hội, vốn đã chịu ảnh hưởng bởi những tranh luận đương thời với cái nhìn tu đức và mầu nhiệm trong Tân ước, cũng như cái nhìn của các giáo phụ về Giáo hội. Câu hỏi nền tảng là: không phải “Giáo hội là gì?” nhưng “Giáo hội là ai?”[4] Đây là câu hỏi sẽ hướng dẫn tôi trong suy niệm này.
2- Giáo hội như là Thân thể và là Hôn thê của Đức Kitô

Trọng tâm và nội dung Kitô học của Lumen Gentium lộ ra cách đặc biệt ngay ở chương đầu, nơi mà Giáo hội được trình bày như là Hôn thê và là Thân thể của Đức Kitô. Chúng ta hãy lắng nghe một vài khẳng định của Công đồng:
“Giáo hội, được gọi là “thành Giêrusalem trên trời” và là “mẹ của chúng ta” được miêu tả (Gl 4,26); x. Kh 12,17) như Hiền thê tinh tuyền của Con Thiên Chúa không tì ố (x. Kh 19,7; 21,2 và 9; 22,17) được Chúa Kitô “yêu mến và hiến thân để thánh hóa” (Ep 5,25-26), được Người kết hợp bằng một giao ước bất khả phân ly, được “nuôi dưỡng và săn sóc” không ngừng (Ep 5,29). Sau khi thanh tẩy Hiền thê, Chúa Kitô muốn Hiền thê ấy kết hợp và vâng phục mình trong tình yêu và trung tín (x. Ep 5,24).”[5]
Khi nói về điều này, Công đồng đề cập đến tước hiệu “Hiền thê” và tước hiệu “Thân thể của Chúa Kitô”:
“Khi Con Thiên Chúa chiến thắng sự chết bằng cái chết và phục sinh, trong nhân tính Người kết hợp, Người đã cứu chuộc và biến con người thành một thụ tạo mới (x. Gl 6,15; 2Cr 5,17). Thực vậy, Người tạo lập cách mầu nhiệm các em Người, tụ họp từ muôn nước thành Thân thể Người, bằng cách thông truyền Thánh Thần cho họ… Khi bẻ bánh tạ ơn, chúng ta thực sự thông dự vào Thân thể của Chúa nên chúng ta được nâng lên để hiệp thông với Người và với nhau. “Chúng ta tuy nhiều nhưng là một tấm bánh, một Thân thể vì hết thảy chúng ta đồng thông hưởng cùng một tấm bánh” (1Cr 10,17).[6]

Khi còn là Hồng y, Đức Ratzinger cũng đã cố gắng làm sáng tỏ tương quan nội tại giữa hai hình ảnh này của Giáo hội: Giáo hội là Thân thể của Đức Kitô bởi vì Giáo hội là Hiền thê của Đức Kitô! Nói cách khác, từ ban đầu, Phaolô dùng hình ảnh Giáo hội như là Thân thể của Đức Kitô không theo lối ẩn dụ của phái khắc kỷ để nói lên sự hòa hợp của các chi thể trong thân thể con người (cho dẫu thỉnh thoảng ngài áp dụng nó theo cách này như trong thư Rôma 12,4 tt và 1Cr 12,12 tt), nhưng ngài muốn nói lên ý nghĩa hôn phối từ việc người nam và người nữ kết hợp với nhau làm nên một thân xác trong hôn nhân (x. Ep 5,29-32), ngài còn muốn nói lên ý nghĩa Thánh thể từ một thân thể duy nhất được tạo nên nhờ những ai ăn cùng một tấm bánh: “Bởi vì tấm bánh là một, dầu tuy nhiều nhưng chúng ta là một Thân thể, tất cả chúng ta tham dự một tấm bánh” (1Cr 10,17).[7]

Chúng ta cần phải nhắc lại rằng đây là tâm điểm của quan niệm thánh Augustinô về Giáo hội, theo đó đôi khi ngài có những diễn tả đồng hóa cách riêng và đơn sơ Thân thể Chúa Kitô là Giáo hội với Thân thể Chúa Kitô là Thánh thể.[8] Điều này cho thấy sự phát triển của thành ngữ “Thân thể mầu nhiệm” Chúa Kitô để nói về Thánh thể, dần dần chuyển sang để ám chỉ Giáo hội như cách hiểu của ngày hôm nay.[9] Như chúng ta biết, đây cũng là cái nhìn có tầm quan trọng đưa nền Giáo Hội học Công Giáo gần với Giáo Hội học Thánh thể của Giáo hội Chính thống. Không có Giáo hội và không có Thánh thể, Chúa Kitô sẽ không có một “Thân thể” trong thế giới. 


3- Từ Giáo hội đến linh hồn

Một nguyên tắc thường được các giáo phụ lặp đi lặp lại và áp dụng cho Giáo hội là “Ecclesia vel anima”, “Giáo hội hay là linh hồn.”[10] Nghĩa là điều ta nói về Giáo hội nói chung, ta áp dụng cho mỗi người nói riêng trong Giáo hội, sau khi có những phân biệt cần thiết. Có một khẳng định được gán cho thánh Ambrôsiô: “Giáo hội thật xinh đẹp trong các linh hồn.”[11] Khi muốn trung thành với ý hướng mà tôi đã đề cập để những suy niệm này trực tiếp tập trung nhiều hơn trong việc xác định những phương diện của Giáo Hội học theo Công đồng, chúng ta có thể tự hỏi: “Đâu là ý nghĩa đối với đời sống tu đức của một Kitô hữu để sống và thực hiện ý tưởng này về một Giáo hội như là Thân thể và là Hôn thê của Đức Kitô?”

Nếu Giáo hội trong ý nghĩa sâu thẳm nhất và trung thực nhất là Thân thể của Chúa Kitô, thế thì tôi hiện thực Giáo hội trong tôi, tôi là một “hữu thể Giáo hội”[12] theo mức độ mà tôi để cho Chúa Kitô làm cho tôi trở thành Thân thể Người, không chỉ trên lý thuyết nhưng cả trên thực hành. Thật là kỳ diệu vì điều này không phải do vị trí mà tôi có trong Giáo hội nhưng là do vị trí mà Chúa Kitô có trong trái tim tôi!

Công trình này được thực hiện một cách khách quan nhờ các bí tích, và đặc biệt hai trong các bí tích: Rửa tội và Thánh thể. Chúng ta đón nhận bí tích Rửa tội một lần, nhưng chúng ta có thể đón nhận bí tích Thánh thể mỗi ngày. Đây là lý do tại sao Thánh thể đóng vai trò rất quan trọng mà chúng ta phải cử hành và đón nhận trong một cách thế như vậy, ngõ hầu chúng ta có thể hoàn thành trách nhiệm là biến mình trở nên Giáo hội. Châm ngôn nổi tiếng của Henri de Lubac: “Thánh thể làm nên Giáo hội”[13] áp dụng không chỉ cho mức độ cộng đoàn nhưng còn cho mức độ cá nhân. Thánh thể làm cho mỗi người chúng ta thành một Thân thể của Chúa Kitô, nghĩa là Giáo hội. Ở đây tôi cũng muốn trích dẫn những lời rất sâu sắc của Đức Hồng y Ratzinger:

“Hiệp thông có nghĩa là những rào cản bên ngoài như không thể vượt qua của cái “tôi” được mở rộng… nghĩa là sự kết hợp của hai cuộc sống; giống như trong việc dùng thức ăn, cơ thể tiêu hóa chất bên ngoài thành của mình, và nhờ đó mà sống, trong một cách thế tương tự cái “tôi” được “tiêu hóa” bởi chính Chúa Giêsu, để nên giống với Người trong một sự biến đổi mà càng ngày càng hủy bỏ những con đường phân cách.”[14]

Hai hiện hữu, của tôi và của Chúa Kitô, trở thành một “không lẫn lộn và không phân chia”, không mang tính cách ngôi hiệp như trong mầu nhiệm nhập thể nhưng mang tính thần bí và hiện thực. Hai “cái tôi” trở thành một cái tôi duy nhất: Không phải “cái tôi” nhỏ bé của thụ tạo nhưng là cái tôi của Chúa Kitô, sau khi rước Thánh thể, mỗi người chúng ta có thể dám nói như thánh Phaolô: “Không còn phải tôi sống, nhưng chính Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Qua Thánh thể, Nicholas Cabasilas viết:

“Chúa Kitô hiến mình trong chúng ta và tan biến với chúng ta, nhưng Người thay đổi và biến đổi chúng ta nên giống Người, như một giọt nước nhỏ được biến đổi bởi được đổ vào trong biển cả của dầu thơm.”[15]

Như chúng ta đã nói, hình ảnh về Giáo hội như là Thân thể của Chúa Kitô được liên kết mật thiết với hình ảnh về Giáo hội như là Hiền thê của Chúa Kitô, và điều này cũng có thể trở thành một sự trợ giúp tuyệt vời cho chúng ta để kinh nghiệm Thánh thể theo con đường nhiệm huấn cách sâu xa. Thư gửi tín hữu Êphêsô nói rằng: hôn nhân là một biểu tượng của sự kết hợp giữa Chúa Kitô và Giáo hội:

“Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh (Ep 5,31-32).

Theo thánh Phaolô, hệ quả lập tức của hôn nhân là thân xác của người chồng giờ đây thuộc về người vợ và ngược lại, thân xác của người vợ thuộc về người chồng (x. 1Cr 7,4).

Khi áp dụng cho Thánh thể, điều này có nghĩa là thân xác không hư nát của Ngôi Lời nhập thể, Đấng ban sự sống, trở thành “bản ngã của tôi”, nhưng ngay cả thân xác của tôi, nhân tính tôi, trở thành thân xác, nhân tính của Chúa Kitô và thuộc về Người. Trong Thánh thể chúng ta đón nhận Mình và Máu Chúa Kitô, nhưng Chúa Kitô cũng “đón nhận” mình và máu chúng ta! Thánh Hilariô thành Poitiers viết rằng: Chúa Giêsu đảm nhận thân xác của những ai đón nhận Mình Người.[16] Chúa Kitô nói với chúng ta: “Này là Mình Thầy, hãy cầm lấy”, nhưng chúng ta cũng có thể nói với Người: “Này là mình con, hãy cầm lấy.”

Trong tập thơ về Thánh thể có tên là Khúc hát về vị Thiên Chúa ẩn dấu, Karol Wojtyla, sau này là vị Giáo hoàng, gọi con người mới này, đời sống mới được thực hiện nhờ “cái tôi của Chúa Kitô Thánh thể”:

Và này là phép lạ,

Một sự biến đổi xảy ra:

Này Chúa trở thành mình con,

Và con trở thành Mình Chúa.[17]

Không có gì trong đời tôi mà không thuộc về Chúa Kitô. Đừng có ai nói rằng: “Ồ, Chúa Giêsu không biết gì về kết hôn, không biết làm một người phụ nữ, rồi không biết gì khi mất một đứa con, không biết gì về bệnh tật, già nua, hay trở thành một người da màu!” Nếu bạn biết điều gì, thì Người cũng biết điều đó nhờ bạn và qua bạn. Bất cứ điều gì mà chính Chúa Kitô không thể kinh nghiệm “trong thân xác”, khi Người ở trên trần gian, như kinh nghiệm của mỗi người, bị giới hạn với một số kinh nghiệm, thì nay Đấng Phục Sinh sống và kinh nghiệm chúng “trong Thánh Thần”, nhờ sự hiệp thông hôn phối của Thánh Lễ. Người sống trong người phụ nữ như là người phụ nữ, trong người già như là người già, trong người bệnh với điều kiện bệnh tật. Những gì đã “thiếu” trong toàn bộ mầu nhiệm “Nhập thể” của Ngôi Lời thì nay được “hoàn tất” nhờ Thánh thể.

Trong một lá thư gửi cho mẹ bề trên, chân phước Êlizabeth Chúa Ba Ngôi viết: “Tân nương thuộc về tân lang; tân lang của tôi đã cưới con; Người muốn con thêm cho Người một nhân tính.”[18] Chúa Giêsu như đang nói với chúng ta điều này: “Ta đói khát con, Ta muốn sống trong con, vì thế, Ta cần sống trong các tư tưởng của con, trong mọi tình cảm của con; Ta cần sống qua thân xác con, qua cơ thể con, qua ước vọng mỗi ngày của con; Ta cần con nuôi dưỡng theo cách thức mà con được Ta nuôi dưỡng!”

Quả là một sự kỳ diệu và an ủi gây ngạc nhiên khi nghĩ rằng nhân tính của chúng ta trở thành nhân tính của Đức Kitô! Nhưng điều này cũng gắn liền với nhiều trách nhiệm! Nếu cặp mắt tôi trở thành cặp mắt Chúa Kitô và miệng tôi trở thành miệng Chúa Kitô, thì đây chính là lý do không cho phép con mắt của tôi thỏa thuê với những hình ảnh dâm dật, đây là lý do không cho phép lưỡi tôi nói lời chống lại người anh em, hay dùng thân xác tôi phục vụ như một phương tiện cho tội lỗi. Thánh Tông Đồ hỏi: “Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần Thân thể của Đức Kitô sao? Tôi lại lấy phần Thân thể của Đức Kitô mà làm phần Thân thể của người kỹ nữ sao?” (1Cr 6,15). Những lời này áp dụng cho mọi người được Rửa tội. Nhưng phải chăng cũng nói với những người sống đời thánh hiến, với các thừa tác viên của Chúa, những người phải là “những mẫu gương của đoàn chiên” (1 Pr 5,3) đó sao? Mỗi người có thể chỉ biết rùng mình khi nghĩ về sự thiệt hại nặng nề xảy ra đối với Thân thể của Chúa Kitô là Giáo hội. 


4- Một cuộc gặp gỡ cá vị với Chúa Giêsu

Theo cái nhìn này, tôi vừa nói về những lợi ích khách quan hay thuộc bí tích đối với việc chúng ta trở thành Giáo hội, Thân thể của Chúa Kitô. Tuy nhiên, còn một chiều kích chủ quan và hiện sinh hiện diện trong điều mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói trong Evangelii Gaudium như một “cuộc gặp gỡ cá vị với Chúa Giêsu Nazareth.” Chúng ta hãy nghe những lời này lần nữa:

“Tôi mời gọi mọi người Kitô hữu, dù ở đâu hay trong hoàn cảnh nào, hãy canh tân ngay việc gặp gỡ cá vị với Đức Giêsu, hay ít nhất, quyết định để cho Người gặp gỡ chúng ta, mỗi ngày luôn tìm kiếm Người. Không có lý do nào mà người ta có thể nghĩ rằng lời mời gọi này không dành cho họ.”[19]

Có thể chúng ta cần một bước đi xa hơn ở đây mà vẫn giữ sự kính trọng đối với Giáo Hội học Công đồng. Trong ngôn ngữ Công Giáo, “một cuộc gặp gỡ cá vị với Chúa Giêsu” chưa bao giờ là một ý niệm quen thuộc cả. Thay vì một cuộc gặp gỡ “cá vị”, người ta quy chiếu ý tưởng này về một cuộc gặp gỡ Giáo hội được thực hiện qua bí tích của Giáo hội. Mệnh đề này có một âm hưởng nào đó của Tin Lành đối với đôi tai người Công Giáo chúng ta. Rõ ràng cuộc gặp gỡ được đề nghị này không phải thay thế cho cuộc gặp gỡ cá vị với Chúa Kitô nơi bí tích, nhưng là làm cho cuộc gặp gỡ bí tích đó thành cuộc gặp gỡ mang tính quyết định cách tự do hay được xác nhận, chứ không phải chỉ là một cuộc gặp gỡ theo danh nghĩa, pháp lý, hay theo thói quen. Nếu Giáo hội là Thân thể của Chúa Kitô, một sự gắn bó tự do và cá vị với Chúa Kitô là con đường duy nhất để bước vào cuộc gặp gỡ đó, để làm thành một phần của Giáo hội theo cái nhìn hiện sinh.

Để hiểu một cuộc gặp gỡ cá vị với Chúa Giêsu có nghĩa là gì, chúng ta cần có một cái nhìn khái quát vào lịch sử. Người ta đã trở thành những thành viên của Giáo hội trong ba thế kỷ đầu như thế nào? Dẫu có sự khác biệt từ cá nhân này đối với cá nhân khác và từ nơi chốn này đối với nơi chốn khác, sau một thời gian khai tâm, các dự tòng quyết định gia nhập đạo, đây là kết quả của một quyết định cá nhân và đồng thời một chọn lựa nguy hiểm bởi vì có thể phải tử đạo.

Những điều này đã thay đổi khi Kitô giáo trở thành một tôn giáo được chấp nhận và sau đó, trong một thời gian ngắn, là tôn giáo được ưu đãi và nếu không muốn nói là buộc phải theo. Trong hoàn cảnh này, điểm nhấn không còn đặt trên thời điểm và cách thế mà người ta trở thành Kitô hữu nữa, nghĩa là làm sao anh hoặc chị đến với đức tin, nhưng lại dựa trên những đòi hỏi luân lý của chính đức tin, trên sự thay đổi những thói quen của một con người – hay nói cách khác, trên luân lý.

Dẫu không phải tất cả, tình hình đã ít tiêu cực hơn so với những gì mà chúng ta có thể chứng kiến hôm nay, bởi vì, với tất cả sự mâu thuẫn mà chúng ta nhận thấy như gia đình, giáo dục, văn hóa và dần dần ngay cả xã hội cũng đã giúp đỡ con người thời đó đón nhận đức tin hầu như cách tự nhiên. Thêm vào đó, ngay từ đầu của hoàn cảnh mới này, đã sinh ra những hình thức đời sống mới như phong trào đan tu và sau đó nhiều dòng tu khác nhau, trong đó phép rửa được sống một cách tận căn và đời sống Kitô hữu là kết quả của một quyết định cá vị, thường là mang tính anh hùng.

Ngày hôm nay, cái được gọi là “Kitô chế” đã thay đổi tận gốc rễ. Từ đây, có sự khẩn thiết cho một cuộc tân Phúc âm hóa nhưng phải để ý đến hoàn cảnh mới. Trên bình diện thực hành, chúng ta đang nói đến việc phải kiến tạo những cơ hội cho con người hôm nay, để trong một bối cảnh mới, cho phép họ thực hiện quyết định tự do, cá vị và trưởng thành mà các Kitô hữu ngày xưa đã thực hiện khi đón nhận phép rửa và điều đó đã làm cho họ trở thành Kitô hữu đích thực chứ không chỉ là Kitô hữu trên danh nghĩa.

Từ năm 1972, cuốn “Nghi thức gia nhập Kitô giáo của người lớn” có đề nghị một hình thức của giai đoạn dự tòng đối với phép rửa cho người lớn. Trong một số quốc gia, nơi mà nhiều người lớn đến với phép Rửa, chương trình này cho thấy rất hiệu quả. Nhưng chúng ta sẽ làm gì cho số đông Kitô hữu đã được Rửa tội rồi nhưng lại sống như những Kitô hữu chỉ trên danh nghĩa thôi, không có thực hành cụ thể nào và không còn liên hệ với Giáo hội nữa cũng như đời sống bí tích?

Có một câu trả lời cho vấn đề này là những phong trào khác nhau thuộc Giáo hội, những hiệp hội giáo dân và những cộng đoàn giáo xứ được canh tân xuất hiện sau Công đồng. Sự đóng góp chung của những nhóm này – dù rất khác nhau về hình thức và số thành viên – chính là đã cung cấp bối cảnh và những phương thế cho phép nhiều người lớn thực hiện một chọn lựa cá vị đối với Đức Kitô, để sống phép rửa một cách nghiêm túc và để trở thành những người tham dự tích cực trong Giáo hội.

Nhưng tôi sẽ không dừng lại trên phương diện mục vụ liên quan đến vấn đề trên. Ở phần kết của suy niệm này, điều tôi muốn nhấn mạnh một lần nữa rằng phương diện tu đức và hiện sinh liên quan cách riêng đến chúng ta. Như thế cuộc gặp gỡ cá vị với Chúa Kitô nghĩa là gì? Nghĩa là loan báo “Chúa Giêsu là Chúa!” như thánh Phaolô và các Kitô hữu sơ khai làm, khi hiến dâng toàn bộ đời sống của mình mãi mãi cho điều ấy.

Khi đó, Chúa Giêsu không còn là một nhân vật nhưng là một con người gần gũi. Người không còn là một “ai đó” mà chúng ta chỉ nói về nhưng là một Đấng mà chúng ta có thể nói cùng và nói với, bởi Người đã sống lại và đang sống; Người không còn là một ký ức, nhưng là một sự hiện diện thực sự, dẫu Người đang sống và hoạt động có tính cách phụng vụ. Điều này muốn nói rằng chúng ta không thực hiện bất kỳ quyết định quan trọng nào mà trước đó đã không khẩn cầu với Người trong cầu nguyện.

Tôi đã nói ngay từ lúc đầu rằng con người không chấp nhận Chúa Kitô vì tình yêu đối với Giáo hội, nhưng họ chấp nhận Giáo hội vì tình yêu đối với Đức Kitô. Chúng ta hãy cố gắng yêu mến Chúa Kitô và làm cho Người được yêu, như thế chúng ta sẽ dấn thân phục vụ cách tốt nhất cho Giáo hội. Nếu Giáo hội là Hiền thê của Chúa Kitô, thì cũng giống như mọi Hiền thê, nàng sẽ sinh những người con mới chỉ khi biết kết hợp mình với vị Hôn phu nhờ tình yêu. Hoa trái của Giáo hội tùy thuộc vào tình yêu của chúng ta đối với Đức Kitô. Mỗi người chúng ta có thể phục vụ Giáo hội cách tốt nhất khi chúng ta yêu mến Chúa Giêsu và lớn lên trong sự thân mật với Người.[20]


[1] Lumen Gentium 1, in Vatican Council II: Constitutions, Decrees, Declarations, gen. ed. Austin Flannery (Northport, NY: Costello, 1996), p. 1.
[2] Cf. Joseph Cardinal Ratzinger, “The Ecclesiology of Second Vatican Council,” in Church, Ecumenism, and Politics: NewEndeavors in Ecclesiology (San Francisco: Ignatius Press, 2008), p. 15.
[3] Cf. St. John Paul II, Novo millennnio ineunte, 42 and 45.
[4] Cf. Hans Urs von Balthasar, Explorations in Theology, Vol. 2: Spouse of the Word, trans. John Saward (San Francisco: Ignatius Press, 1991), pp. 143-192.
[5] LG 6
[6] LG 7
[7] Cf. Joseph Cardinal Ratzinger, “The Origin and Essence of the Church,” in Called to Communion: Understandingthe Church Today (San Francisco: Ignatius Press, 1996), pp. 13-40.
[8] Cf. St. Augustine, “Sermon 272,” in The Works of Saint Augustine, Part 3, vol. 7, trans. Edmund Hill, ed. John E. Rotelle (Hyde Park, NY: New City Press, 1993), pp. 300-301. Cf. also (PL 38, 1247f.).
[9] Cf. Henri de Lubac, Corpus Mysticum: The Eucharist and the Church in the Middle Ages, trans. Gemma Simmonds (Notre Dame, IN: University of Notre Dame Press, 2007).
[10] Cf. Origen, On the “Song of Songs,” III (GCS 33, pp. 185, 190); St. Ambrose, Expositions of Psalm 118, 6, 18 (CSEL62, p. 117).
[11] St. Ambrose, On the Mysteries, 7, 39, quoted in Henri de Lubac, Medieval Exegesis, Volume 2: The Four Senses of Scripture, trans. E. M. Macierowski (London: A & C Black, 2000), p. 135.
[12] Cf. John Zizioulas [L’être ecclésiale, 1981], Being as Communion: Studies in Personhood and the Church(Crestwood, NY: St. Vladimir’s Seminary Press, 1997).
[13] De Lubac, Corpus Mysticum, p. 88.
[14] Ratzinger, “The Origin and Essence of the Church,” p. 25.

[15] Nicholas Cabasilas, Life in Christ, 4, 6, trans. Carmino J. de Catanzaro (Crestwood, NY: St Vladimir’s Seminary Press, 1974), p. 123; Cf. also PG 150, 593.
[16] St. Hilary of Poitiers, The Trinity, 8, 6: “Eius tantum in se adsumptam habens carnem, qui suam sumpserit”: “He has assumed and taken upon himself the flesh of him only who has received His own.” English trans., Stephen McKenna, in vol. 25, The Fathers of the Church (Washington, DC: Catholic University of America Press, 2010), p. 287; Cf. also PL 10, p. 248.
[17] Karol Wojtyla, “Song of the Inexhaustible Sun,” in The Place Within: The Poetry of John Paul II, trans. Jerzy Peterkiewicz (New York: Random House, 1994), p. 23.
[18] Blessed Elizabeth of the Trinity, in Jean Lafrance, Learning to Pray According to Sister Elizabeth of the Trinity, trans. Florestine Audette (Sherbook, QC: Médiaspaul, 2003), p. 124.
[19] Pope Francis, Evangelii gaudium, 1, 3.
[20] Chuyển ngữ từ “Christ, The Light To The Nations” – A Christological Reading of Lumen Gentium (http://www.zenit.org/en/articles/father-cantalamessa-s-1st-advent-homily–2).

No comments:

Post a Comment